Thursday, August 21, 2008

CẦN CÓ CÁI NHÌN NGHIÊM TÚC VỀ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHẤT

Ngay từ sau ngày 30-04-1975, Việtcộng chiếm được Miền Nam thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cùng chịu chung số phận bị chiếm đoạt các cơ sở tôn giáo chùa viện, trường học, trung tâm văn hóa, từ thiện, như các tôn giáo khác tại Miền Nam. Tu sĩ bị khủng bố, bắt hoàn tục, khiến cho 12 Tăng, Ni tại thiền viện Dược Sư ở Cần Thơ phải Tự Thiêu vào ngày 02-11-75, để bày tỏ quyết tâm, toàn ý, hy sinh nhục thân, nhằm phản đối chính sách đàn áp tôn giáo của nhà cầm quyền Việtcộng.

Ngài tổng thư ký Viện Hóa Đạo của Giáo Hội, Thích Quảng Độ được cử đặc trách theo dõi sự vụ. Từ đó 2 Ngài phó viện trưởng VHĐ, Thích Huyền Quang và Ngài Quảng Độ cùng chư tôn đức Tăng, Ni phát động phong trào đòi hỏi nhà nước Việtcộng phải hoàn trả những tài sản tịch thu của Giáo Hội và trả lời về các vụ Tăng, Ni tự thiêu. Cuộc đấu tranh bị đàn áp. Ngày 06/04/1977, các nhà lãnh đạo Giáo Hội bị bắt cầm tù. Năm 1981, Việtcộng thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh, nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc, nhằm xóa sổ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dân lập của truyền thống Dân Tộc. Nhưng các Ngài Huyền Quang, Quảng Độ vẫn cương quyết duy trì sinh hoạt của GHPGVNTN. Nên ngày 25/02/82, Hòa thương Thích Huyền Quang bị trực xuất khỏi Saigòn đem về quản chế tại chùa Phước Hội, Quảng Ngãi. Ngài Thích Quảng Độ bị quản chế tại Thái Bình.

Thế nhưng ngọn lửa đấu tranh Cứu Nguy Dân Tộc và Tự Do Tôn Giáo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn không bị tắt. Ngài Thích Đức Nhuận, nguyên Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, đã cùng với các Tăng, Ni trẻ thành lập ngay Ủy Ban Bảo Vệ Phật Giáo và Cứu Nguy Dân Tộc để tiếp tục cuộc đấu tranh, nhằm giữ vững tinh thần cho các Tăng, Ni, và duy trì mạng mạch của Giáo Hội Dân Lập. Dù, các Tăng, Ni công khai đấu tranh bị bắt cầm tù. nhưng vẫn là nơi nương tựa tinh thần để nuôi từ tâm và ý chí tự do, để các Tăng, Ni khác nhẫn nhục ẩn tàng trong các chùa viện do Giáo Hội Quốc Doanh quản lý. Chờ đến ngày 23-04-1992, dịp tang lễ của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, Xử Lý Viện Tăng Thống tại chùa Thiên Mụ ở Huế, Ngài Thích Huyền Quang, phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, từ nơi lưu đầy Quảng Ngãi về chịu tang, để nhận di chúc của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, cung thỉnh Ngài giữ chức vụ Xử Lý Hội Đồng Lưỡng Viện, kiêm Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, với trách nhiệm phục hoạt GHPGVNTN.

Dù Ngài Thích Huyền Quang phải trở lại nơi bị quản chế. Nhưng những thông tư, thông điệp của Ngài đã được chuyển ra nước ngoài. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoakỳ và các châu được thành lập, tạo ảnh hưởng vào trong nước. Năm 1994, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận ra khỏi tù, Ngài liên hệ ngay với Hòa Thượng Thích Huyền Quang, quy tụ tất cả các tăng ni tại Sàigòn và Miền Nam về với Giáo Hội, để khi Ngài Thích Quảng Độ, tổng thư ký VHĐ về đã có sẵn nhân sự để bắt tay vào việc. Nhân việc Giáo Hội tổ chức đi cứu trợ nạn lụt vùng đồng bằng Cửu Long. Ngày 04-01-1995, Ngài Thích Quảng Độ và nhiểu Tăng sĩ đã bị bắt. Ngài Thích Quảng Độ lại bị Việtcộng kết án 5 năm tù giam. Cả thế giới lên án Việtcộng. Phong trào Phục Hoạt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong và ngoài nước lên cao. Năm 1998, Hoakỳ ban hành Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo Thế Giới. Chính phủ Hoakỳ đặt Tự Do Tôn Giáo vào chính sách ngoại giao của mình. Nước Mỹ thành lập Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoakỳ để theo dõi vấn đề Tự Do Tôn Giáo trên thế giới

Ngày 01-10-2003, tại tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, Đại Hội GHPGVNTN họp, suy cử Hòa Thượng Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đức Tăng Thống, Hòa Thượng Thích Quảng Độ vào chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Hòa Thượng Thích Thiện Hạnh giữ chức Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống và cung thỉnh các chức vụ trong Hội Đồng Lưỡng Viện. Giáo Hội Phật Giáo Dân Lập lừng lững phục hoạt, từ trong nước tới hải ngoại. Việtcộng lại xuống tay đàn áp mạnh. Quốc Hội Hoakỳ, Quốc Hội Liên Âu, Quốc Hội Úc… đều ra Nghị Quyết nhìn nhận tính chính đáng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất và đòi hỏi Việtcộng phải trả tự do cho Đức Tăng Thống và Ngài Viện Trưởng VHĐ và các vị lãnh đạo Giáo Hội, và để cho Giáo Hội được tự do hành hoạt. Từ đó các Ban Đại Diện Giáo Hội ở địa phương trong nước công khai xuất hiện.

Viêtcộng biết rằng, muốn cô lập, tiêu diệt được Giáo Hội ở trong nước, phải phá tan lực lượng Giáo Hội tại Hải Ngoại. Nên chúng đã tìm cách lũng đoạn Phật Giáo Hải Ngoại, với hy vọng dùng các cuộc bầu cử của các Giáo Hội tại hải ngoại, để đoạt quyền lãnh đạo Văn Phòng 2 VHĐ và hướng Phật Giáo Hải Ngoại về dự lễ Vesak Hànội. Buộc Đức Tăng Thống phải ban hành Giáo Chỉ số 9. Tách Văn Phòng 2 VHĐ khỏi các cuộc bầu cử địa phương, mà chỉ trực thuộc sự bổ nhiệm và ủy nhiệm từ Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Trung Ương, để thống nhất điều hành các giáo hội hải ngoại. Nhân đó bọn tay sai Việtcộng tung tin giả, gây hoang mang trong Tăng, Ni, Phật Tử hải ngoại, cố tình chia lực lượng Phật Giáo Hải Ngoại làm 2 để chống lẫn nhau. Họ cho đó là Giáo Chỉ Giả, mặc dù chính Đức Tăng Thống xác nhận qua Đài Á Châu Tự Do là do Ngài đích thân ký ban hành. Phật Tử và Đồng Bảo Hải Ngoại thuộc các tôn giáo khác, đã thật vô cùng sáng suốt, tất cả nhìn nhận Giáo Chỉ số 9 là biện pháp cần thiết để duy trì công cuộc tranh đòi Tự Do Tôn Giáo, Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việtnam của GHPGVNTN dân lập. Ngày 05-07-08, Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang viên tịch. Nhà nước Việtcộng và Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh, đã muốn nhân dịp này đứng ra làm tang lễ cho Ngài, để chôn luôn GHPGVNTN theo. Nhưng nhà nước Viêtcộng đã phải chùn tay, vì sợ dư luận quốc tế. Nhất là giữa Pháp Quyến và Giáo Hội đồng tâm nhất trí đặt dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Hòa Thượng Viện Trưởng VHĐ, thực hiện một Tang Lễ Vô Tướng, chỉ có tụng niệm, không điếu văn, phát biểu. Lễ an táng diễn ra thật trang nghiêm, trọng thể.

Ngày 17-08-2008, tại Houston, Texas Giáo Hội đã tổ chức lễ chung thất của Đức Đệ Tứ Tăng Thống. Dịp này, di chúc của Đức đệ tứ Tăng Thống đề ngày 17-01-2005, được tuyên đọc. Theo đó: Điểu 2 “ Ủy thác Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, kiêm nhiệm chức Xử Lý Viện Tăng Thống để điểu hành Phật sự của Giáo Hội, cũng như kiện toàn, chấn chỉnh, bổ sung hoặc hoán chuyển nhân sự sao cho Giáo Hội được nhất quán, tùy duyên mà bất biến, để đối ứng với mọi tình thế”. Nghĩa là quyển tối cao thống nhất lãnh đạo Giáo Hội, theo di chúc của Đức Tăng Thống Thích Huyển Quang thì Ngài đã sáng suốt trao vào tay vị pháp hữu tận tín của mình là Hoà Thuợng Thích Quảng Độ, để thực hiện sứ mạng mà Ngài chưa hoàn tất.
Trong thông điệp thâu sẵn, được phát ra trong buổi lễ, Hòa Thượng Thích Quảng Độ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Xử Lý Viện Tăng Thống nói: “Hội Đồng Lưỡng Viện nguyện đem hết sức mình trong cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN để giữ gìn bảo vệ Giáo Hội Truyền Thống đã do Lịch Đại Tổ Sư, chư Thánh Tử Đạo và toàn thể Phật Tử xây dựng nên. Hội Đồng Lưỡng Viện nguyện thực hiện lời Ngài căn dặn, để đem lại Nhân Quyền cho Người Sống, Linh Quyền cho Người Chết, Dân Chủ cho Xã Hội, làm nền tàng cho sự phát triển Con Người và Đất Nước, cũng như hợp quần với mọi nhân sĩ, trí thức, đoàn thể, tổ chức nhằm hậu thuẫn những công trình bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ, lẽ phải và tự do, hạnh phúc và giác ngộ cho mọi người”.

Xem thế, dù ngôi vị Tăng Thống còn bỏ trống, chờ Hội Đồng Lưỡng Viện suy cử. Nhưng trong hiện trạng, GHPGVNTN do Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo, quyết giữ truyền thống độc lập với thế quyền, đúng theo tôn chỉ và giáo luật của Đức Phật truyền dậy. Những vị tăng sĩ chân chính nguyện theo gương Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ bỏ thế quyền, danh lợi, thực hành Đạo Giải Thoát, cứu khổ cho dân, cứu nạn cho nước, như các Ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Hộ Giác, Thiện Hạnh thì dùng chữ “Thích” trước pháp hiệu của các Ngài là xứng đáng.



Còn những kẻ đội lốt nhà tu để phá đạo, trở thành công cụ cho bạo quyền cộng sản, làm khổ dân, hại nước; nhận chức dân biểu, nhận ban huân chương, cam tâm chịu trói thân, khẩu, ý mình trong Mặt Trận Tổ Quốc VN. Rồi cả một bày y áo chỉnh tề, cúi rạp đầu vào lăng dâm thần Hồ Chí Minh để chiêm bái, thì đó là loại Đề Bà Đạt Đa, một chướng duyên của thời Đức Phật tại thế. Không thể dùng chữ “Thích” trước tên hiệu của họ, cũng không phải là “Sư”, mà chỉ là “Sãi”. Xin tất cả hãy viết và gọi họ như là: Sãi Thanh Tứ, Sãi Nhật Từ…để khỏi làm dơ họ Đức Phật, làm đau lòng Phật Tử mười phương.



Thành thật cảm ơn.

Little Saigon ngày 19-08-2008.

http://anhduong.info/joomla/index.php?option=com_content&task=view&id=1953&Itemid=1

No comments: