Trần Nam - ĐDCND
Trong cuộc gặp giữa Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Phó thủ tướng Trung Quốc Li Xiannian hồi tháng 6, 1977 tại Bắc Kinh, Li nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng rằng "Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc và những điều này có chứng cớ lịch sử để xác định". Đồng thời cũng nói thêm "trong quá khứ phiá Việt Nam đã công nhận điều này", một cách ám chỉ chính cá nhân Thủ tướng Phạm Văn Đồng. (Beijing Review - May 1979)
Tài liệu không nói rỏ Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã phản bác lại những lập luận của Trung Quốc thế nào để bênh vực chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên, dư luận có thể hiểu là đảng Cộng sản Việt Nam và đích thân Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã không thể chống đở nổi luận điệu này vì bị rơi vào thế "há miệng mắc quai".
Theo Bộ ngoại giao Trung Quốc thì chủ quyền của họ đối với Trường Sa và Hoàng Sa là không thể tranh cải (Beijing Review, Feb 18, 1980). Vì chính Hà Nội, trong các cuộc đàm phán trước kia đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này rồi, vì vậy nếu Hà Nội thay đổi thái độ của họ thì không có cơ sở. Trung Quốc đã đưa ra hai sự kiện cụ thể để làm bằng chứng Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng đồng ý với Trung Quốc về chủ quyền của hai quần đảo đang tranh chấp này.
Sự kiện thứ nhất là vào tháng 6 năm 1956, Phó thủ tướng Việt Nam, ông Ung Văn Khiêm, thay mặt Bắc Việt Nam xác nhận với phiá Trung Quốc như sau "Theo các tài liệu lịch sử từ phía chúng tôi (Việt Nam), đảo Xisha (Hoàng Sa) và Nansha (Trường Sa) thuộc về vùng đất lịch sử của quý quốc (Trung Quốc)".
Sự kiện thứ hai là ngày 14 tháng 9 năm 1958, tức 2 năm sau đó, Thủ tướng Bắc Việt Nam đã gửi công hàm đến Thủ tướng Chu Ân Lai xác nhận chủ quyền Trung quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Trung Quốc chính thức công bố chủ quyền lãnh hải của họ là 12 hải lý, bao gồm luôn các quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và Trường Sa (Nansha) của Việt Nam. (1)
Bấm vào hình để phóng lớn
Nội dung bức công hàm Thủ tướng Bắc Việt Nam Phạm Văn Đồng viết như sau "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958".
Năm 1979, 21 năm sau, khi chiến tranh biên giới Việt-Trung bùng nổ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tìm cách phủ nhận công hàm trên khi trả lời cuộc phỏng vấn của tờ báo Viễn Đông Kinh Tế. Ông Đồng cho rằng vì lúc đó đất nước có chiến tranh nên Đảng và Nhà nước đã phải ứng xử như vậy. Nói cách khác, vì quyền lợi của đảng CSVN và vì những mưu cầu chính trị, đảng CSVN sẳn sàng nhượng bộ về nhiều mặt, kể cả việc bán đứng chủ quyền của đất nước.
Hiện nay vấn đề tranh dành chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa đã càng lúc càng trở nên gay gắt, có nguy cơ đối đầu bằng chiến tranh để giải quyết những mâu thuẩn. Sự kiện Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt đảng CSVN xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này đặt cho Hà Nội ở vị thế khó xử, cho dù chủ quyền của Việt Nam đã có những chứng liệu lịch sử xác nhận. Việt Nam hiện ra sức giải thích với dư luận trong và ngoài nước về lỗi lầm họ đã mắc phải, biện minh rằng "Trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ nên Việt Nam phải nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc, mặc dù công hàm viết như vậy nhưng không ảnh hưởng đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".
Điều nghịch lý là trong bối cảnh lịch sử lúc đó, năm 1958, chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về phiá Chính phủ Miền Nam Việt Nam. Trong khi phiá Miền Nam đã tìm đủ mọi cách để khẳng định chủ quyền thì đảng CSVN lại trơ trẻn ra công hàm phủ nhận chủ quyền của họ, phản bội quyền lợi đất nước và dân tộc, cam tâm bán đứng hai quần đảo này cho phiá Trung Quốc.
Năm 1951 tại Hội nghị ở San Francisso, khi Nhật ký Hiệp định hoà bình, Hiệp định này đã không đề cập rỏ ràng chủ quyền của nước nào đối với Trường Sa và Hoàng Sa. Chính phủ Việt Nam, Thủ tuớng Trần Văn Hữu có mặt trong Hội nghị đã tuyên bố công khai Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Thủ tướng Trần Văn Hữu, khẳng định tại Hội nghị trong ngày 7 tháng 7 năm 1951 như sau: "Trong khi chúng ta cùng khai dụng mọi cơ hội để làm giảm đi những căng thẳng, phiá Việt Nam chúng tôi xin khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa vì những quần đảo này luôn thuộc về Việt Nam". (2, 3)
Trong số 51 quốc gia tham dự, đại biểu phía Liên Bang Sô Viết sau đó đề nghị nên thêm một phần trong bản Hiệp định, đề cập rằng Nhật đặt hai quần đảo này dưới chủ quyền của Trung Quốc. Đề nghị đó đã bị Hội nghị biểu quyết không chấp thuận với tổng số 46 phiếu thuận. Nói cách khác, Hội nghị với đại biểu của 46 trong tổng số 51 quốc gia tham dự lúc đó đã công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là không thể phủ nhận. Sự kiện Trung Quốc đã không phản bác tuyên bố của phiá Việt Nam trước công luận thế giới sau Hội nghị 1951 tại San Francisco đã xác nhận điều này. Tuy nhiên, đến khi Đảng CSVN, đại diện là Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vì quyền lợi của Đảng đã ký công hàm "bán nước" vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 thì phiá Trung Quốc có cở sở để chính thức phản bác và ngang ngược đòi chủ quyền của họ trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Nước chảy đá mòn nhưng "Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". Vết nhơ về lỗi lầm ngoại giao trước dư luận thế giới có thể che đậy, nhưng vết nhơ về tội lỗi mang tính lịch sử thì không thể xoá nhoà.
---------------------------------------------------------------------------
1- DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People's Congress on 4th September, 1958)
The People's Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China. http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
2- On July 7, 1951 (http://en.wikipedia.org/wiki/July_7 ) , Tran Van Huu, head of the Bao Dai (http://en.wikipedia.org/wiki/Bao_Dai ) Government's delegation to the San Francisco Conference on the peace treaty with Japan declared that the archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa were part of Vietnamese territory. This declaration met with no challenge from the 51 representatives at the conference. http://en.wikipedia.org/wiki/Transportation_in_the_Spratly_Islands
3 - On 7 July 1951 the head of the Vietnamese delegation, Tran Van Huu, addressed the conference on the issue of Truong Sa: As we must frankly profit from all the opportunities offered to us to stifle the germs of discord, we affirm our rights to the Spratly and Paracel islands, which have always belonged to Vietnam. (Ministry of foreign affairs socialist republic of Vietnam 1981)
http://ddcnd.org/main/index.php?option=com_content&task=view&id=428&Itemid=9
http://www.ddcnd.org/main/
Tài liệu:
http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Hoang_Sa
http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Truong_Sa
http://vi.wikipedia.org/wiki/Quần_đảo_Hoàng_Sa
http://www.uknetguide.co.uk/Weather/Vietnam/Truong_Sa_Forecast.html
http://commons.wikimedia.org/wiki/Image:Map-truong-sa.gif
http://commons.wikimedia.org/wiki/Image:Map-hoang-sa.gif
http://www.youtube.com/watch?v=ivMVg7il_HQ
http://en.wikipedia.org/wiki/Nansha
http://en.wikipedia.org/wiki/Spratly_Islands
http://encyclopedia2.thefreedictionary.com/Nansha+Island
http://encyclopedia.farlex.com/Nansha+Island
http://www.indopedia.org/South_China_Sea_Islands.html
http://simple.wikipedia.org/wiki/Republic_of_China
http://encyclopedia.farlex.com/Xisha+Island
http://encyclopedia.farlex.com/Xisha+Qundao
http://www.knowledgerush.com/kr/encyclopedia/Xisha_Islands/
http://www.nationmaster.com/encyclopedia/Xisha-Islands
http://www.indopedia.org/South_China_Sea_Islands.html
http://www.famouschinese.com/virtual/South_China_Sea_Islands
http://paracels.info/
Thảo luận về Hoàng Sa trên website Bộ Giáo dục Đào tạo · Blogger Duong Trung Quoc ... Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa
http://fr.blog.360.yahoo.com/blog-J1rBZgM5dKeJMsFcByvjDeBOoEn4TTHR?p=32
Liên quan:
- vuhuusan_conghambannuoc1958.pdf
- vuhuusan_Chu_quyen_HoangTruong_sa.pdf
- vuhuusan_bandophanchiaVinhBacViet.pdf
- vuhuusan_haiphantrieukm2.pdf
- vuhuusan_nuocViet_hinhchu_S.pdf
- TauXamLangHanHoaVN2.pdf !!!!!
- ConDuongCachMangViet1.pdf
- Trung Cộng có thể tiến đánh Việt Nam từ bên sau dãy núi Trường Sơn
- 6/9/2008, Lễ Công Bố Bạch Thư Trường Sa & Hoàng Sa
- Nguy Cơ Từ Phương Bắc
- audio: 2002: Phản ứng của người Việt trong và ngoài nước sau khi biết sự việc bị ém nhẹm từ 1999-2000
- 14 Tháng 9 Năm 1958 - Ngày Đảng CSVN Ký Công Hàm Bán Nước
- Tài Liệu Tình Báo Về CSVN Bán Nước Cho Trung Cộng 1999-2000
- Tài liệu về Hoàng Trường Sa
- 2008: Gs Nguyễn Văn Canh nói về Bạch Thư về Hoàng Sa và Trường Sa
- 2008: Phỏng vấn: Những suy tư của cựu sĩ quan Trần Anh Kim (Thái Bình) về sự hèn yếu của đảng & nhà nước CSVN về vụ Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa & Trường Sa
- 2008: Phỏng vấn nhà văn Ha Phương (VN) : đúng, VN đã mất đất, đảo biển
- Trường Chinh kêu gọi cả nước làm "nô lệ" cho Trung Cộng
---------------------
Liên quan:
- audio: lịch sử, Cs cấp tiến_bảo thủ, thời sự, bình luận
- audio Sự tích con yêu râu xanh
- audio quanh Công hàm bán nước của Phạm văn Đồng 1958 playlist
audio quanhViecCsvn_banNuoc_1999-2000 playlist
* Audio playlist: lịch sử, HCM, cncs, dân oan, dân chủ, biên giới HS TS
- audio Hồ Chí Minh & cncs 1 playlist
- audio Hồ Chí Minh & cncs 2 playlist
- audio phát biểu của Ls Lê Thị Công Nhân
---------------------------------------------------------------------------
Việt Nam là một nước mà Trung Cộng muốn thôn tính nhất bằng mọi giá, vì Việt Nam là chốt ngăn duy nhất của dòng Bách Việt còn sót lại để chế ngự
sức bành trướng của Trung Cộng xuống phương Nam.
Thời cơ may-mắn cho Trung Cộng là vào năm 1991, khối Liên Sô sụp đổ, nhóm lãnh đạo Hànội mất chỗ dựa, bèn cúi đầu làm tay-sai cho Trung Côïng để bảo
toàn đảng và quyền lợi. Đây chính là hình thức không cần thái thú từ Trung Cộng gửi qua cai trị Việt Nam mà dùng ngay bọn lãnh đạo Việt làm tay sai cho Trung Cộng (Tân thái thú).
Những việc làm phản bội đất nước của bọn “tân thái thú” như:
- Cho phép dân Trung Cộng tha hồ đi khắp Việt Nam mà không cần chiếu khán.
- Trung Cộng ra lệnh cho bọn tay sai ở bộ chính trị cộng sản Việt Nam làm xa lộ Trường Sơn để Trung Cộng lập các căn cứ quân sự kiên cố trong các
hang núi cho chuẩn bị chiến tranh. (Biết đâu các căn cứ này chính là nơi đầu não Bắc Kinh trú ẩn để phòng khi Trung Cộng bị Hoa Kỳ oanh tạc. Lãnh đạo Bắc Kinh nghĩ là Hoa Kỳ không ngờ họ lại trú ẩn ở vùng Trường Sơn chứ không phải tại một căn cứ bí mật nào đó trong hầm núi ở nội điạ nước Tầu mà Hoa Kỳ đã chấm sẵn tọa độ oanh tạc). Xa lộ Trường Sơn này Trung Cộng có thể di chuyển quân nhanh chóng từ vùng Hoa Nam (tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây) đi qua Việt Nam, lào, Campuchia xuống tận Thái Lan.
- Trung Cộng buộc cộng sản Việt Nam xây hơn 10 cây cầu bắc qua sông Hồng để tiện cho Trung Cộng đổ quân tràn khắp Việt Nam khi cần thiết. Trung
Cộng viện trợ cho VC lập đường sắt chạy từ thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam nối tới Hànội để tiện việc buôn bán hay chuyển quân và vũ khí qua Việt Nam
khi cần thiết.
- Trung Cộng yểm trợ tối đa cho chính quyền quân phiệt Miến Điện, đổi lại cho Trung Cộng mở xa lộ nối liền Vân Nam với Miến Điện. Năm 1989, Trung
Cộng cung cấp cho chế độ quân phiệt Miến Điện 1.4 tỷ đôla vũ khí, đổi lại Miến Điện cho Trung Cộng sử dụng hòn đảo Hangyi ở ngoài khơi vịnh Bengal, tiếp cho Trung Cộng đặt một trạm kiểm thính trên đảo Grand Coco ở phía bắc của quần đảo Andaman của Ấn Độ trong Ấn Độ Dương để Trung Cộng dùng vào
việc tình báo, kiểm soát và theo dõi những hoạt động của Ấn Độ và Hoa Kỳ trong vùng Ấn Độ Dương.
- Để tạo thế đứng chiến-lược trong vùng, biến vùng này thành sân sau của Trung Cộng và sau đó là bao vây Ấn Độ. Vì thế Trung Cộng thương-lượng với
chính quyền Bangdalesh để lập căn cứ hải quân tại đây... Như vậy trong vùng Đông Nam Á, và Nam Á, Trung Cộng đã thiết lập một hệ thống nối liền các căn cứ quân sự trên đất liền và biển.
- Ở Đông Bắc Á, Trung Cộng dùng Bắc Hàn, tên đàn em để quấy rối. Ai cũng rõ nếu không có bàn tay Trung Cộng, chế độ Cộng sản khát máu Bắc Hàn
đã sụp đổ từ lâu, chứ đâu có thể lâu-lâu lại mang vũ khí nguyên tử ra hù doạ thế-giới. . . .
Tham-vọng ngông cuồng của Bắc Kinh đã quá rõ ràng. Các nước tiểu nhược trên thế giới đừng vì quyền lợi của phe nhóm hay quốc gia mình mà hà-hơi
cho Bắc Kinh để họ có dư thêm tiền bạc phá hoại thế giới. Bài học lịch sử về Hitler còn đó. Vì nhát sợ, vì cầu an, vì lợi lộc cho quốc gia mình, cho phe nhóm mình mà Tây phương và Liên Sô mới đầu đã làm ngơ, giúp cho Hitler đủ phương tiện xâm chiếm lân bang rồi khi đủ mạnh, Hitler quay sang đánh Tây phương và Liên Sô, gây ra thế chiến II làm chết hơn 60 triệu
người.”
DKH
Ngoại trưởng VN: 'TQ không nên lo lắng'
10 years ago
No comments:
Post a Comment