Thursday, July 24, 2008

Thư ngỏ của anh Ðỗ Nam Hải: Phản đối Quyết định phi pháp của Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam

Thư Ngỏ

Về việc: Phản đối Quyết định phi pháp của Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.


Thành phố Sài Gòn – Việt Nam ngày 24/7/2008
Kính gửi: Các cơ quan truyền thông cùng các quý vị và các bạn quan tâm.

Tên tôi là: Đỗ Nam Hải, sinh năm 1959 tại Hà Nội - bút hiệu: Phương Nam.
Nghề nghiệp: Kỹ sư kinh tế ngân hàng – Chuyên nghành: Tiền tệ - Tín dụng.
Chỗ ở và nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
441 Nguyễn Kiệm – Phường 9 – Quận Phú Nhuận – Thành phố Sài Gòn – Việt Nam.

Hôm nay tôi viết Thư Ngỏ này, kính gửi đến các cơ quan truyền thông cùng các quý vị và các bạn quan tâm được rõ về tình hình hiện nay của tôi như sau:

Chiều ngày 21/7/2008 vừa qua, tôi đã đến văn phòng Ủy ban Nhân Dân (UBND) P.9 – Q.Phú Nhuận – Tp. Sài Gòn để nhận “Quyết định cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính” số 551/QĐ-CC, do ông Phạm Công Nghĩa – Chủ tịch UBND quận Phú Nhuận, ký ngày 26/6/2008. Người trực tiếp giao Quyết định này cho tôi là ông Nguyễn Bá Tùng – Chủ tịch UBND P.9 – Q. Phú Nhuận, với sự chứng kiến của ông Nguyễn Hoài Phong, trung tá – Đội trưởng đội An ninh nhân dân, thuộc công an quận Phú Nhuận và một thư ký thuộc UBND P.9 – Q.Phú Nhuận. Một “Biên bản giao quyết định cưỡng chế xử phạt vi phạm hành chính” đã được lập.

Sau khi ký nhận, tôi đã nói với 3 vị trên rằng: “Sở dỹ hôm nay tôi đến đây nhận Quyết định này không phải là để sau đó tôi đi đóng phạt. Tính từ cuối năm 2005 đến nay tôi đã nhận được 4 Quyết định xử phạt hành chính như thế này, với tổng số tiền phạt là 51,5 triệu VNĐ (tương đương với hơn 3000 USD) từ phía các ông rồi. Và như các ông đã biết, tôi đều đã phản đối và không chấp nhận đóng phạt, dù chỉ là 1 đồng. Mục đích chính của tôi đến đây hôm nay là để có thêm bằng chứng tố cáo trước công luận trong nước và quốc tế, về việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại một lần nữa vi phạm trắng trợn các quyền tự do tư tưởng, thông tin, ngôn luận,… của công dân. Tôi cũng đề nghị với các ông rằng: để tránh sự căng thẳng không đáng có thì hôm nay chúng ta không nên tranh luận những quan điểm, quan niệm về tự do dân chủ nữa. Bởi vì, những cuộc tranh luận như vậy thì có ông Nguyễn Hoài Phong đây biết, nó đã từng diễn ra hàng trăm lần giữa tôi với các sỹ quan công an thuộc Bộ công an, Sở công an Tp. Hồ Chí Minh và công an quận tại Trụ sở công an Q. Phú Nhuận và nhiều đồn công an khác ở Sài Gòn và Hà Nội rồi”.

Cũng ngay trong buổi làm việc trên, tôi đã ghi vào tờ Biên bản như sau:

“Ý kiến của tôi (Đỗ Nam Hải):
1) Tôi phản đối Quyết định phi pháp này và cương quyết không chịu đóng phạt.
2) Cuộc đấu tranh giành lại tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam nhất định thắng lợi!”


Đồng thời, ghi vào Quyết định cưỡng chế trên như sau:

“Viết tại Ủy ban nhân dân phường 9 – quận Phú Nhuận.

1) Tôi phản đối hành vi của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, thông qua công an Việt Nam xông vào nhà tôi khám nhà và cưỡng đoạt tài sản của tôi, bao gồm: máy tính, máy in, điện thoại và các tài liệu dân chủ của tôi. (ngày 27/3/2008).

2) Tôi phản đối hành vi vi phạm pháp luật tiếp theo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam là đã ra các Quyết định xử phạt hành chính và nay là Quyết định cưỡng chế xử phạt hành chính số 551/QĐ-CC này. Tôi thực hiện quyền tự do thông tin của mình và vì vậy, tôi cương quyết không chịu đóng phạt.

3) Nền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam nhất định sẽ đến!

Sài Gòn ngày 21/7/2008.
Người viết: Đỗ Nam Hải (đã ký)”.


Ông Nguyễn Bá Tùng nói: “Nếu anh Đỗ Nam Hải không tự nguyện đóng phạt theo nội dung của Quyết định này thì 5 ngày sau, kể từ ngày hôm nay, chúng tôi sẽ sử dụng biện pháp cưỡng chế thi hành theo luật định”. Tôi nói lại: “Các ông muốn làm gì thì làm, còn việc tôi phản đối là quyền của tôi. Tôi không thách thức, nhưng tôi một lần nữa khẳng định với các ông rằng: tất cả những việc tôi làm từ trước đến nay đều là đúng đối với đất nước và dân tộc và vì vậy, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi sự đàn áp từ nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam của các ông, đối với tôi.”. Buổi làm việc kết thúc vào lúc 16 giờ cùng ngày.

Cũng xin được giải thích rõ hơn: sở dỹ có Quyết định cưỡng chế số 551/QĐ-CC trên là bởi vì trước đó, ngày 9/5/2008 cũng ông Phạm Công Nghĩa, Chủ tịch UBND Q. Phú Nhuận đã ký Quyết định số 392/QĐ - XPHC để xử phạt hành chính tôi 15 triệu VNĐ. Quyết định ấy lại bắt nguồn từ việc công an đã đến khám nhà tôi như sau: sáng ngày 27/3/2008, trong khi tôi đang đi trên đường thì bị một tốp công an mặc thường phục (là những người vẫn luôn luôn đi theo dõi tôi suốt mấy năm qua) chặn lại và mời tôi về Trụ sở công an quận Phú Nhuận, số 181 Hoàng Văn Thụ, P.8, Q. Phú Nhuận. Các sỹ quan công an thuộc Phòng An Ninh Bảo Vệ Chính Trị Nội Bộ Và Chống Gián Điệp, thuộc Sở công an Tp. HCM (PA 35) và công an quận Phú Nhuận đã làm việc với tôi. Nội dung chủ yếu mà họ muốn hỏi tôi là xung quanh bài phát biểu của tôi trong cuộc hội luận Paltalk ngày 1/3/2008, do Phong trào Yểm trợ Khối 8406 tại Vancouver – Canada tổ chức. (xin gửi kèm ở phần Phụ lục cuối Thư ngỏ này).

Cũng như những lần trước thì lần này tôi vẫn cương quyết không chịu làm việc với họ. Vì vậy, họ đã giữ tôi tại đó từ sáng đến chiều. Khoảng 15 giờ, họ đọc cho tôi nghe bản “Quyết định khám giữ nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”, ký cùng ngày 27/3/2008 do ông Võ Hoàng Nghĩa , thượng tá, Trưởng công an Q.Phú Nhuận ký, với sự phê chuẩn của ông Phạm Công Nghĩa – Chủ tịch UBND quận Phú Nhuận. Tôi yêu cầu họ được cùng đi về nhà, vì tôi là chủ của những tài sản đó. Mặt khác, căn phòng tôi đang ở cùng trong ngôi nhà với cha mẹ ruột tôi hiện đang khóa và do tôi giữ chìa khóa. Nhưng yêu cầu chính đáng này của tôi đã không được họ chấp nhận.

Sự việc diễn ra sau đó là: công an đã đến nhà tôi, đọc cho cha mẹ tôi nay đều đã 83 tuổi nghe cái Quyết định khám nhà trên. Tiếp theo, họ phá khóa cửa phòng tôi rồi soi mói, lục lọi và lấy đi: máy vi tính (CPU, màn hình, bàn phím, chuột, tai nghe), Modem (mạng Internet), máy in trắng đen, 2 điện thoại di động, tài liệu viết tay, in, một số hình ảnh (niêm phong trong 1 thùng carton) như tờ “Biên bản khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính” đã liệt kê. Đây là lần thứ 6 kể từ lần đầu tiên là ngày 4/12/2004, công an Việt Nam đã tịch thu máy tính của tôi và họ đã không hề trả lại tôi một cái nào.

Khoảng 17 giờ cùng ngày, họ mang những tài sản trên của tôi về lại Trụ sở công an Q.Phú Nhuận khi tôi vẫn còn bị giữ tại đó. Họ nói với tôi: “Đây, mọi thứ của anh Hải vẫn còn nguyên dấu niêm phong. Vậy đề nghị anh Hải từ ngày mai lên đây, chúng tôi sẽ mở niêm phong ra và chúng ta sẽ cùng làm việc về từng dữ liệu lưu trong máy tính của anh.”. Tôi trả lời họ: “Không, tôi không làm việc với các ông là những quân ăn cướp; còn Đảng cộng sản Việt Nam của các ông đã chỉ đạo cho các ông đi ăn cướp thì cũng là một đảng cướp! Các ông muốn làm việc với cái máy tính ấy ra sao thì làm, muốn ghi vào hồ sơ cáo trạng của tôi thế nào thì ghi, tôi không quan tâm. Còn tôi thì dứt khoát không chịu làm việc với các ông.”. Một viên trung tá công an, thuộc PA 35 nói với tôi: “Tại sao anh Hải lại nói chúng tôi là quân ăn cướp? Lần này cũng như tất cả những lần trước, khi chúng tôi đến nhà anh khám nhà và tạm giữ tài sản của anh thì đều có Quyết định của cơ quan công an, của chính quyền rất đàng hoàng và minh bạch đấy thôi”. Tôi nói lại: “Cái giống nhau giữa 2 quân ăn cướp là cùng ăn cướp và cái khác nhau là ở chỗ: quân ăn cướp kia thì không có giấy phép, còn quân ăn cướp này thì có giấy phép của Đảng các ông, vậy thôi!”.

Những ngày sau đó, vì không chịu đi làm việc, nên công an đã liên tục chặn bắt tôi dọc đường hàng chục lần và đưa về Trụ sở công an Quận Phú Nhuận. Cũng như những lần trước, tôi đều không chấp nhận làm việc với họ. Trong thế bế tắc, họ nói với tôi: “Chúng tôi gửi Giấy mời, rồi Giấy triệu tập nhiều lần nhưng anh Hải đều không đi; chẳng những thế lại còn viết “tầm bậy, tầm bạ” vào đó nữa. Nay chúng tôi buộc phải dùng biện pháp mạnh là dẫn giải anh về đây thì anh cũng lại không chịu làm việc. Như vậy thì chúng tôi lấy cơ sở đâu mà báo cáo cấp trên, lấy cơ sở đâu mà hoàn tất hồ sơ về anh?”. Tôi trả lời: “Đấy là việc của các ông, tôi không quan tâm. Các ông muốn vu cáo tôi là gián điệp, là phản động, khủng bố, là người của C.I.A, của “các thế lực thù địch” hay là của gì gì đi chăng nữa cũng được. Các ông đã từng vu cáo tôi và vu cáo biết bao người khác để khép tội họ, nay có vu cáo tôi thêm cũng chẳng sao. Riêng tôi thì có một nhận xét như thế này: Có thể nói rằng “tinh thần vượt mọi khó khăn” để quyết tâm vu cáo cho những người Việt Nam yêu nước của công an Việt Nam các ông là rất đáng “khâm phục”! "

Cũng xin được nhắc lại rằng: cho đến hôm nay, ngày 24/7/2008 thì xung quanh nhà tôi ở vẫn luôn luôn có công an mặc thường phục theo sát tôi. Mọi việc bắt đầu từ tháng 8/2004, khi một tốp 6 sỹ quan thuộc Bộ công an Việt Nam vào thẳng ngân hàng, nơi tôi đang làm việc và mời tôi đi thẩm vấn. Đặc biệt là từ sau ngày 8/4/2006 đến nay, khi Tuyên ngôn 8406 ra đời thì công an đặt chốt canh gác suốt ngày đêm và suốt 365 ngày/năm. Họ chốt công khai, không cần che giấu, với 2 điểm chốt là: đầu hẻm 429 Nguyễn Kiệm – P.9 – Q.Phú Nhuận cùng bên dãy số lẻ, và tại hai số nhà 428 (quán ăn Bích Vân) và 430 (tiệm rửa xe gắn máy và bán báo) đường Nguyễn Kiệm, P.3, Q. Phú Nhuận, bên dãy số chẵn đối diện.

Mục đích của công an là chốt cả cửa trước và cửa sau nhà tôi. Tôi đi đâu họ cũng đi theo, không dời 1 bước. Mỗi tổ chốt như vậy thường có từ 3 đến 8 người, tùy theo thời điểm. Các chốt này không hề được rút, kể cả trong những dịp lễ, tết cổ truyền của dân tộc. Điều này, hàng trăm gia đình hàng xóm 2 bên đường nhà tôi đều tận mắt chứng kiến. Những người khách qua đường, nếu chỉ cần chú ý một chút cũng có thể phát hiện ra họ. Mỗi khi tôi mở cửa chuẩn bị đi đâu thì những tiếng huýt sáo, tiếng gọi nhau í ới của các cậu công an thuộc 2 điểm chốt kia lại vang lên, nhằm “phối hợp hành động để bảo vệ nền an ninh quốc gia (!?)”. Điều đó đã gây lãng phí hàng trăm triệu đồng mỗi tháng tiền thuế đóng góp của nhân dân, tiền bán tống, bán tháo tài nguyên quốc gia đang bị tận lực khai thác, tiền bán đất, bán biển của Tổ quốc. Tôi nghĩ, riêng mình thì đã là như vậy, còn tính chung cả nước chắc chắn sẽ là một con số lớn khủng khiếp; mà điều này thì dỹ nhiên là thuộc “bí mật quốc gia”! Chính cái chi phí khổng lồ ấy, núp dưới chiêu bài “bảo vệ nền an ninh quốc gia” đã là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới mất sự cân đối Tiền – Hàng, buộc lòng Ngân hàng trung ương phải đẩy thêm tiền mặt vào lưu thông và dẫn tới nạn lạm phát nghiêm trọng của đất nước hiện nay.

Ở Việt Nam, nếu ai đã từng đụng chuyện với cái bộ máy công an trị, chuyên nghề trói tay, bịt miệng nhân dân này thì mới thấy là họ “đông như quân Nguyên” thế nào. Thậm chí có những lần, khi tôi đi xe gắn máy ngoài đường thì nhìn đằng trước, đằng sau, bên trái, bên phải đều có công an đi kèm. Hoặc có khi chỉ muốn xông vào nhà một người đấu tranh dân chủ để lấy đi một bộ máy tính thôi, nhưng họ huy động cả một lực lượng công an lên tới 20 – 30 người, với vòng trong, vòng ngoài, trên gác, dưới lầu. Những lúc ấy, cảm xúc của tôi là: thật xót xa cho dân tộc mình và cũng thật thảm hại cho cái chế độ này. Tất cả những điều đó không làm cho tôi sờn lòng, chùn bước, mà ngược lại, nó càng củng cố thêm cho tôi một quyết tâm. Rằng:

Muốn chống áp bức, bất công, đói nghèo, tụt hậu; muốn hòa nhập được tốt vào thế giới tiến bộ hôm nay; ngoài con đường dân chủ hóa, đa nguyên, đa đảng và pháp trị, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác!

Phương Nam – Sài Gòn – Việt Nam.
Ngày 24 tháng 7 năm 2008


Phụ lục 1:
Tuyên Ngôn 8406 nói lên ý chí và nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Phương Nam - Đỗ Nam Hải

(Phát biểu trong cuộc hội luận Paltalk ngày 01-03-2008, do Phong trào Yểm trợ Khối 8406 tại Vancouver, Canada tổ chức và điều hợp).

Kính thưa quý vị và các bạn,
Tôi là Phương Nam – Đỗ Nam Hải đang phát biểu từ thành phố Sài Gòn – Việt Nam. Hôm nay tôi rất vui mừng và hân hạnh được Ban tổ chức cuộc hội ngộ trên diễn đàn Paltalk này mời tham gia phát biểu. Tôi xin được trình bày tóm tắt 5 vấn đề sau đây :

1) Tuyên ngôn 8406 và Khối 8406 đã giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của đồng bào Việt Nam và quốc tế:

Như chúng ta đã biết, bản Tuyên Ngôn 8406 với tên gọi đầy đủ của nó là Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006, được phổ biến trước công luận trong và ngoài nước vào ngày 8-4-2006. Với số thành viên ban đầu là 118 người dân Việt Nam ở trong nước và chỉ một thời gian ngắn, sau khi bản Tuyên ngôn trên được công bố thì Khối 8406 đã nhận được sự ủng hộ và tham gia mạnh mẽ của hàng ngàn, rồi hàng chục ngàn đồng bào VN ở cả trong và ngoài nước. Đồng thời, các nhà hoạt động chính trị, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ và những người dân bình thường khác của nhiều quốc gia trên khắp thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Nhật Bản, Úc, Canada… cũng đã nhiệt liệt chào mừng và ủng hộ cho tinh thần và nội dung của bản Tuyên ngôn này. Ca ngợi tinh thần can đảm của các thành viên Khối 8406 đã dám dũng cảm đứng lên đương đầu với chế độ độc tài toàn trị hiện nay, để đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc VN.

Theo tôi, sở dĩ Tuyên ngôn 8406 và Khối 8406 nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ như vậy là bởi vì: Thứ 1, đây là lần đầu tiên trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ giành lại tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam đã có một bản văn được khởi phát đi từ trong nước, do hàng trăm người dân trong nước cùng công khai ký tên thật, địa chỉ thật tham gia. Thứ 2 là bản Tuyên ngôn ấy đã nói lên được một cách rõ ràng, dứt khoát ý chí và nguyện vọng khát khao của dân tộc Việt Nam hôm nay là: giành lại các quyền tự do, dân chủ đã bị Đảng cộng sản VN, qua nhiều thế hệ ngang nhiên tước đoạt của dân tộc trong suốt gần 63 năm qua (2/9/1945 – 3/2007). Thứ 3 là Tuyên ngôn 8406 đã vạch rõ được thực trạng của những nỗi bất công, đói nghèo, tụt hậu, đạo đức xã hội xuống cấp… ở VN; vạch rõ được nguyên nhân gốc đã gây ra thực trạng ấy. Đó là chế độ chính trị độc tài, độc đảng toàn trị, phản động và phản dân tộc không chấp nhận sự cạnh tranh trên chính trường ở VN hiện nay. Thứ 4 là Tuyên ngôn 8406 đã chỉ ra được một đường lối đúng đắn của cuộc đấu tranh này, đặt chúng trong mối quan hệ với những điều kiện, hoàn cảnh quốc tế ngày nay.

Đây là một bước ngoặt lịch sử, một thành tựu phát triển đột biến rất đáng phấn khởi và tự hào của phong trào dân chủ VN nói chung và của Khối 8406 nói riêng. Tuyên ngôn 8406 là sự kế thừa và phát triển một cách có chọn lọc những thành tựu cả về lý luận và thực tiễn đã đạt được trước đó, nay được tổng hợp, đúc kết lại để quay lại phục vụ và phát triển phong trào đấu tranh dân chủ.

2) Phản ứng từ phía nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam:

Trước khi bản Tuyên ngôn này ra đời thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam , thông qua bộ máy công an Việt Nam đã tìm mọi cách để ngăn chặn nó. Họ ráo riết thực hiện những hoạt động dò la, rồi dọa dẫm, xông vào khám nhà, tạm giữ người, tịch thu máy tính, khóa điện thoại, cắt Internet và đã có cả những trận đòn thù độc ác, hèn hạ. Nhưng thực tiễn đã chứng minh rằng: họ đã thất bại! Hốt hoảng trước tình hình phát triển đột biến có nguy cơ đe dọa đối với chế độ độc tài, độc đảng này; ngay sau khi Tuyên ngôn 8406 được công bố và Khối 8406 được thành lập thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã mở một chiến dịch đàn áp khốc liệt phong trào dân chủ VN vào cuối năm 2006 và suốt năm 2007 vừa qua. Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (Human Rights Watch) có trụ sở chính tại New York, Hoa Kỳ đã gọi chiến dịch này là "… một trong những vụ triệt phá tồi tệ nhất từ suốt 20 năm qua đối với các nhà bất đồng chính kiến, hoạt động một cách hoà bình…".

Có biết bao người của phong trào dân chủ trên khắp mọi miền đất nước đã bị bắt bớ, kết án tù, giam lỏng, theo dõi, hạch sách, khủng bố,… cả về thể xác lẫn tinh thần trong đó có rất nhiều thành viên của Khối 8406. Chiến dịch đàn áp trên một mặt nói lên bản chất của nhà cầm quyền Việt Nam là không hề thay đổi. Họ luôn luôn muốn dùng bạo lực để đập tan mọi tiếng nói phản kháng, cho dù là rất ôn hòa. Nhưng mặt khác, nó cũng nói lên rằng: phong trào dân chủ Việt Nam nay đã trưởng thành và phát triển sâu rộng trong xã hội. Phong trào đã được nâng từ tự phát lên có tổ chức và đang hàng ngày hàng giờ tích cực, chủ động tấn công vào dinh lũy cuối cùng của chế độ độc tài, độc đảng ở Việt Nam . Bạo lực đã một lần nữa lại bị thất bại thảm hại. Bạo lực càng lạm phát thì lương tâm dân tộc và lương tâm nhân loại càng được thức tỉnh, các lực lượng dân chủ Việt Nam ngày càng mạnh lên trong khi các thế lực độc tài, phản dân chủ ngày càng bị cô lập và suy yếu đi. Họ càng hung hãn thì tội ác của họ càng thêm nặng và bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của họ càng bị phơi bày trước công luận trong nước và quốc tế. Không ai khác, chính họ sẽ phải trả lời về những tội ác trời không dung, đất không tha mà họ đã trực tiếp gây ra cho dân tộc trong suốt bao năm qua, khi dân tộc này chuyển mình!

3) Hai nhiệm vụ chiến lược của phong trào dân chủ Việt Nam:

Theo tôi phong trào chúng ta cần phát huy hơn nữa những kết qủa đã đạt được để thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chiến lược bao gồm cả nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài. Hai nhiệm vụ đó là:

1) Đấu tranh giành lại nền tự do, dân chủ thực sự cho dân tộc.
2) Xây dựng một nước Việt Nam mới, trên nền tảng của một xã hội dân sự, đa nguyên, đa đảng và pháp trị.


Nhiệm vụ thứ 2 là bước phát triển liên tục, khi mà nhiệm vụ thứ nhất đã được hoàn thành. Phong trào dân chủ Việt Nam ngay từ bây giờ đã cần phải có sự chuẩn bị những cơ sở, nền tảng vững chắc cho việc thực hiện nhiệm vụ thứ 2 này. Và chúng ta một lần nữa khẳng định: sẽ không thể và không bao giờ xây dựng được một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong điều kiện chế độ độc tài, độc đảng toàn trị hiện nay! Vì lẽ đó hơn lúc nào hết, chúng ta cần nỗ lực đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ thứ nhất, trên tinh thần và nội dung mà bản Tuyên ngôn 8406 đã nêu ra được phần lớn, với những tiêu chí cần thiết, căn bản nhất. Đó là:

- Mục tiêu đấu tranh là phải thay thế được một cách triệt để chế độ chính trị từ nhất nguyên, độc đảng, phản dân chủ và phản dân tộc hiện nay sang chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng và pháp trị, nhằm xây dựng một xã hội dân sự tiến bộ trong tương lai. Trong quá trình đấu tranh của mình, có thể có những lúc, những nơi, phong trào sẽ đặt những mục tiêu đấu tranh thấp hơn sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nhưng chúng ta phải xác định rõ việc thay thế chế độ chính trị như nêu ở trên phải là mục tiêu cao nhất cần làm của phong trào dân chủ Việt Nam . Nếu mơ hồ trong mục tiêu đấu tranh này, chúng ta dễ bị sa vào đường lối đấu tranh cải lương, nửa vời rất tai hại.

- Phương pháp đấu tranh là hoà bình, bất bạo động. Phong trào đã có những tấm gương chuyển hóa thành công của các nước cựu cộng sản ở Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary … và các nước phi cộng sản khác như: Philippines , Indonesia … trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây động viên, cổ vũ. Và chúng ta tin tưởng rằng: nó nhất định cũng sẽ được áp dụng thành công ở Việt Nam . Phong trào dân chủ Việt Nam trung thành tuyệt đối với phương pháp này và coi đó là vấn đề có tính nguyên tắc trong việc nhận thức và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam . Bằng những cố gắng của mình, chúng ta sẽ truyền niềm tin tất thắng ấy đến với dân tộc trong giai đoạn đấu tranh sắp tới.

- Lực lượng đấu tranh là tuyệt đại bộ phận dân tộc Việt Nam ở cả trong và ngoài nước cùng chủ động đứng lên. Họ bao gồm mọi tầng lớp: trí thức, văn nghệ sỹ, công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên, viên chức, doanh nhân, tiểu thương, các cựu chiến binh, người về hưu, v.v… Đồng thời, phong trào dân chủ Việt Nam tranh thủ tối đa sự ủng hộ của thế giới tiến bộ hôm nay. Đây là sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.

- Động lực của cuộc đấu tranh là tầng lớp trí thức tiến bộ, những người không chịu thờ ơ, vô cảm trước những nỗi đau của đồng loại để chăm lo cho bản thân và gia đình mình. Tầng lớp này vừa là động lực vừa là lực lượng tiên tiến của phong trào dân chủ Việt Nam.

- Đối tượng đấu tranh là các thế lực bảo thủ nắm thực quyền trong Đảng cộng sản Việt Nam . Thế lực này đang thống trị một cách hết sức bất lương lên đầu, lên cổ dân tộc. Chính họ chứ không phải là ai khác đã và đang tìm mọi cách câu giờ để cố duy trì chế độ chính trị độc tài, độc đảng hiện nay nhằm kéo dài sự đặc quyền, đặc lợi cho bản thân và gia đình họ. Ngoài ra, còn có những nhóm lợi ích ăn theo, nói theo nhà cầm quyền và loại này cũng bất lương không kém. Chúng tìm đủ mọi cách câu kết với các quan chức lớn, nhỏ trong hệ thống cầm quyền ở Việt Nam để hàng ngày, hàng giờ bòn rút, hủy hoại và tàn phá đất nước này, dân tộc này. Vì vậy, những “liên minh ma quỷ” ấy sẵn sàng chà đạp lên mọi quyền lợi của dân tộc, bất chấp sự tụt hậu và sự suy vong của cả giống nòi.

- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa; cái tiến bộ nhất định phải thắng cái lạc hậu, phản động và chí nhân phải thắng bạo tàn!

Quá trình xây dựng lực lượng cho phong trào dân chủ, với những tiêu chí nêu trên cũng chính là quá trình vừa tích cực tạo ra thời cơ, vừa nhanh nhạy chớp lấy thời cơ khi nó đến. Với tất cả những gì đã và đang diễn ra ở Việt Nam, với hoàn cảnh thế giới thuận lợi hôm nay, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng: thời cơ của một cuộc xuống đường vĩ đại của toàn dân tộc để giành lại tự do, dân chủ cho Việt Nam nhất định sẽ đến trong một tương lai không xa. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm gì để thúc đẩy cho thời cơ ấy đến càng sớm càng tốt?

4) Nhận thức quy luật để xây dựng và thúc đẩy thời cơ dân chủ:

Theo tôi, quy luật của tất cả các cuộc cách mạng nói chung từ xưa đến nay, cũng như quy luật của các cuộc cách mạng dân chủ trên thế giới diễn ra gần đây thì thời cơ, đồng thời cũng là những điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của những cuộc cách mạng ấy (mà phong trào dân chủ Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ) là:

1. Giai cấp thống trị độc tài thối nát, bị lung lay đến tận gốc rễ; chúng bối rối không thể và cũng không đủ sức nắm quyền cai trị như trước được nữa.

2. Có một phong trào được chuyển biến thành cao trào đấu tranh trong quảng đại bộ phận dân tộc, quyết không cam chịu ách áp bức thêm nữa. Họ đã phải chịu bao cảnh nhục nhã, bất công, đói nghèo; họ bị tước đoạt các quyền tự do, dân sinh, dân chủ, dân quyền; họ căm tức nhà cầm quyền đến cực điểm và nay thì họ quyết vùng lên đấu tranh. Bởi vì, họ hiểu rằng: nếu cứ ngồi yên thì chính bản thân họ cùng gia đình cũng sẽ chết, đất nước họ sẽ ngày càng bị tụt hậu, dân tộc họ sẽ mãi mãi sống kiếp lầm than, nô lệ ở ngay trên Tổ quốc mình.

3. Có 1 đường lối đấu tranh đúng đắn do tầng lớp sỹ phu dân tộc thức tỉnh tập hợp, tổ chức và lãnh đạo.

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, thế giới đã vui mừng chứng kiến nhiều sự kiện của hàng chục nước đã tiến hành các cuộc cách mạng dân chủ thành công bằng phương pháp hòa bình, bất bạo động; chuyển hoá các nước này từ độc tài sang dân chủ. Và thế giới cũng lại không hề chứng kiến một quốc gia nào vốn từ dân chủ bị biến thành độc tài. Điều này cho phép chúng ta đưa ra kết luận: “Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại ngày nay là thời đại sụp đổ của tất cả các chế độ độc tài trên phạm vi toàn thế giới”. Tuy nhiên, việc nhận thức xu thế và các quy luật khách quan là một chuyện, còn việc thúc đẩy cho những quy luật, xu thế ấy phát triển sao cho phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh của thực tiễn Việt Nam lại đòi hỏi những nỗ lực chủ quan của cả dân tộc.

Nếu như tất cả những người tốt đều lặng im và không liên hiệp lại? Nếu như tất cả những người lương thiện đều làm ngơ trước những nỗi đau của dân tộc thì điều gì sẽ xảy ra? Theo tôi, câu trả lời thật rõ ràng: các xu thế và quy luật kia dù là đã xuất hiện nhưng một khi tất cả đều lặng im hay chần chừ chờ người khác làm thay mình thì cái “thời cơ chín muồi” cũng sẽ chẳng bao giờ đến. Và khi ấy, dân tộc Việt Nam sẽ một lần nữa lại bị lỡ chuyến tàu văn minh của nhân loại, như đã từng hơn một lần bị lỡ một cách đau xót trong quá khứ. Không! Chúng ta phải hành động để thúc đẩy cho thời cơ trở thành thời cơ chín muồi! Dân tộc phải hành động để biến cho phong trào trở thành cao trào dân chủ!

5) Những đề nghị cụ thể:

a) Phong trào tiếp tục đấu tranh giành lại 4 quyền tự do căn bản:

1) Quyền tự do Thông tin và Ngôn luận.
2) Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng; bầu cử và ứng cử.
3) Quyền tự do hoạt động Công đoàn độc lập và quyền Đình công chính đáng.
4) Quyền tự do Tôn giáo theo đúng tinh thần và nội dung của các bản Tuyên ngôn, Công ước của Liên Hiệp Quốc về các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa mà nhà nước Việt Nam đã ký kết, nhưng không hề tôn trọng.

b) Tiếp tục xây dựng vững chắc sự liên minh, liên kết trong–ngoài nước, giữa các lực lượng dân tộc đang đấu tranh vì sự nghiệp dân chủ hóa đất nước.

c) Đẩy mạnh công tác quốc tế vận, làm rõ và làm kịp thời sự vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam ở các diễn đàn trên thế giới.

d) Đồng bào hải ngoại hãy về nước để kề vai sát cánh cùng với đồng bào trong nước trong công cuộc đấu tranh dân chủ hiện nay. Qua đó, tình tự dân tộc sẽ được phát triển, và cũng qua đó làm tăng năng lực đấu tranh trên các mặt đấu tranh nóng bỏng hiện nay. Đó là: chống tham nhũng, lãng phí, tệ nạn mua quan, bán chức, bộ máy hư hỏng, nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh, sự ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông và tai nạn lao động tăng cao; vấn đề dân oan, công nhân đình công, lao động Việt Nam bị bán rẻ và bị lăng nhục, bảo toàn đất tổ, …

Cuối cùng, xin kính chúc quý vị và các bạn cùng gia đình luôn mạnh khỏe. Xin chúc buổi hội luận của chúng ta hôm nay thành công tốt đẹp!

Phương Nam - Sài Gòn - Việt Nam.
Tháng 3/2008.


Phụ lục 2:
- Hình Phương Nam chụp chung với phái đoàn Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, tháng 11/2007, tại khách sạn New World, quận 1, Sài Gòn.







No comments: