Tuesday, September 30, 2008

Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa - Tập san Sử Địa Số 29

Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa - Tập san Sử Địa Số 29

Mã tài liệu: TSSD0029
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà xuất bản: Nhà sách Khai Trí 1975 - Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, 2006
Số trang: 359

Tóm tắt:

Đây là số đặc biệt của Tập San Sử Địa về Hoàng Sa và Trường Sa xuất bản năm 1975. Trong số này đăng các bài viết của một số tác giả sau sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày 19/1/1974. Tài liệu này được đưa lên đây với sự đồng ý của TS Nguyễn Nhã (HCM). Tài liệu chỉ được dùng cho mục đích học tập và nghiên cứu.

Tập San Sử Địa số 29/1975
http://vinavigation.net/Downloads/TapSanSuDia/TapSanSuDiaSo29.rar
--------------------------------------------------
http://dialybiendong.tripod.com/
http://members.tripod.com/luotsong/dialybie.htm
http://vuhuusan.110mb.com/dialybie.htm
http://www.esnips.com/doc/8c57693d-170e-4ad6-bdbb-931472902ec5/DiaLyBienDong-Final13June07
- Viettudan: Hoang sa Trường sa - pdf
- BachThu_HoangSa_TS_.pdf- pdf
- tai lieu Hsts
- TqVn

- Đỗ Thông Minh (Nhật):
Lãnh thổ lãnh hải : http://www.mediafire.com/?4famibfn0jt

Ai phỉ báng dân tộc?

29.9.2008

Trần Trung Đạo

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14352&rb=0401

Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc xã, được xem như là một trong những người áp dụng thành công nhất kỹ thuật vận động quần chúng, có lần đã chỉ thị cho các cán bộ tuyên truyền của Đảng Quốc xã Đức không nên tổ chức các phiên họp quần chúng vào buổi sáng sớm. Theo Goebbels, vào buổi sáng đầu óc con người sáng sủa, sinh lực được hồi phục sau một giấc ngủ ngon, nhờ đó mà ý thức phản kháng của họ rất mạnh. Họp hành vào ban đêm sẽ đem lại nhiều hiệu quả hơn vì con người mệt mỏi, sinh lực cạn dần sau ngày dài làm việc và do đó khả năng phân biệt giữa đúng và sai, giữa thành thật và dối trá cũng yếu theo. Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc xã còn nhấn mạnh: ”Nếu nói dối đủ to và cứ tiếp tục lặp đi lặp lại lời dối trá của mình, quần chúng rồi sẽ tin vào lời dối đó”. Kỹ thuật tuyên truyền như Joseph Goebbels giải thích, tóm lại, là nói dối đúng lúc và nói dối nhiều lần.

Một trong những ví dụ nổi tiếng của nói dối đúng lúc là bản tin về người hành tinh khác đổ bộ vào nước Mỹ của Orson Welles, đạo diễn của đoàn kịch Mercury Theatre on the Air, được phát vào ngày 30 tháng 10 năm 1938. Trong lúc đang lôi cuốn người nghe trên đài phát thanh với vở kịch Chiến tranh giữa các thế giới (The War of the Worlds) phỏng theo tác phẩm cùng tên của Herbert George Wells, Orson Welles đã ngưng lại để công bố một bản tin sốt dẻo. Nội dung của bản tin cho biết người hành tinh khác đang xâm lăng trái đất tại một địa điểm gọi là Grover's Mill thuộc tiểu bang New Jersey. Trong số gần 12 triệu người nghe bản tin của Orson Welles, đã có khoảng 1 triệu người tin rằng người hành tinh khác thật sự đang đổ bộ tại New Jersey. Thế là, thành phố bị ngưng trệ, xa lộ kẹt xe vì hàng ngàn người bỏ thành phố để chạy về các khu vực nông thôn, nhà thờ ngưng thánh lễ, công sở đóng cửa, siêu thị tràn ngập người mua thức ăn để dự trữ cho cuộc chiến tranh hành tinh khủng khiếp sắp diễn ra. Hẳn nhiên, đó là tin thất thiệt, thế nhưng vẫn có hàng triệu người tin bởi vì được phát ra đúng thời điểm người nghe đang bị thu hút vào vở kịch Chiến tranh giữa các thế giới. Việc áp dụng cách nói dối như vậy được các nhà nghiên cứu về lý thuyết tuyên tuyền gọi là những viên đạn thần thông (magic bullets) của kỹ thuật tuyên truyền.

Ngoài ra, một kỹ thuật khác được gọi là big lie, tạm dịch là “láo to” mà tôi đã trích trong bài trước. Kỹ thuật láo to rất xưa nhưng rất hữu hiệu. Một lời nói dối tày trời nếu được lặp đi lặp lại mãi rồi cũng sẽ có người tin. Một ví dụ quen thuộc với người Việt về phương pháp láo to này là chuyện Tăng Sâm giết người thời Xuân Thu. Chính mẹ Tăng Sâm còn tin là con mình giết người đừng nói chi ai khác. Hitler phân tích kỹ thuật này trong hồi ký Đời tranh đấu của tôi (Mein Kamf): “Láo to luôn có một mức độ đáng tin cậy nhất định, bởi vì quảng đại quần chúng trong một nước bị sa một cách dễ dàng vào tầng sâu của bản chất xúc động hơn là một cách ý thức hay tự nguyện; và do đó, nhận thức sớm nhất của họ đã trở thành nạn nhân của láo to hơn là láo nhỏ, vì chính họ cũng thường hay nói dối những chuyện lặt vặt nhưng cảm thấy thật xấu hổ khi phải nói những chuyện láo tày trời. Việc bịa ra những chuyện láo to chưa bao giờ xuất hiện trong đầu óc họ và vì thế họ cũng không tin là những người khác lại có thể vô liêm sỉ đến mức có thể bóp méo sự thật một cách xấu xa như thế”. Mặc dù Hitler phân tích để phê bình người Do Thái đã “láo to” khi đổ lỗi sự thất bại của Đức trong Thế chiến Thứ nhất cho Ludendorff nhưng chính Đảng Quốc Xã đã tận dụng kỹ thuật này để tiêu diệt dân Do Thái.

Trong thế giới cộng sản, từ Lenin, Stalin và hầu hết lãnh đạo các nước cộng sản đã áp dụng một cách triệt để phương pháp láo to như một loại vũ khí nhằm triệt hạ uy tín đối thủ và tiêu diệt các thành phần đối kháng, các mầm mống chống đảng trong mọi lãnh vực. Tuyên truyền là vũ khí quyết định và cũng là phương tiện sống còn của Đảng. Và Việt Nam cũng không ra ngoài khuôn khổ. Hai kỹ thuật nói dối đúng lúc và nói dối lặp lại thịnh hành tại Việt Nam từ 1954 tại miền Bắc và từ 1975 trên phạm vi cả nước. Đọc các tài liệu về Cải cách Ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, các vụ án chống xét lại… để thấy rằng, trong hơn nữa thế kỷ qua, những viên đạn tuyên truyền độc ác đã sát hại không biết bao nhiêu người dân vô tội, trong số đó rất nhiều người yêu dân tộc, yêu hòa bình và tự do dân chủ.

Và mới đây, những viên đạn tuyên truyền lại nhắm vào đức Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt sau bài phát biểu của ngài tại Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội hôm 20 tháng 9 năm 2008.

Các cơ quan truyền thông, từ các báo phát hành với số lượng lớn như Lao Động, Thanh Niên, các đài phát thanh, truyền hình, cho đến trang web của các bộ, các ban ngành nhà nước, theo chỉ thị của Đảng, đồng loạt tố cáo đức Tổng Giám mục đã “phỉ báng dân tộc” vì ngài “cảm thấy nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam”. Đảng đã dịch chữ “hộ chiếu” thành “dân tộc”. Và một lần nữa chiêu bài “bảo vệ dân tộc” lại được treo lên, những tiếng kèn thúc quân quen thuộc một thời đã đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc vào cuộc chiến tranh chém giết biết bao người miền Nam vô tội lại được thổi to lên và những khẩu hiệu đã từng dẫn đường cho bao nhiêu thế hệ Việt Nam như những con thiêu thân lao vào lò lửa tham vọng bá quyền của Trung Quốc và Liên Xô được giương cao trên đường phố.

Báo Công An Đà Nẵng chạy một tít dài: “Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt là người nước nào vậy?” (http://www.cadn.com.vn/News/Chinh-Tri-Xa-Hoi/So-Tay-Nha-Bao/2008/9/21/14144.ca  ) . Tờ Việt Báo bình luận: “Ông Ngô Quang Kiệt nên xấu hổ với giáo dân!” ( http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ong-Ngo-Quang-Kiet-nen-xau-ho-voi-giao-dan/75193475/157/ )  Báo Công An Nhân Dân tố cáo: “Lộ rõ ý đồ xấu của ông Ngô Quang Kiệt” (http://ca.cand.com.vn/vi-VN/thoisuxahoi/tintucsukien/2008/9/134723.cand  ) . Báo Hà Nội Mới nhận xét:” Ông Ngô Quang Kiệt đi ngược lại lợi ích của dân tộc” (http://www.hanoimoi.com.vn/vn/41/181252/   ) Trên trang web chính thức của chính phủ: “Lộ rõ bản chất xấu xa và tâm địa đen tối” ( http://www.chinhphu.vn/portal/page?_pageid=33,128127&_dad=portal&_schema=PORTAL&pers_id=130895&item_id=8799663 ) Các báo khác đã liên tục viết những bài xã luận lên án nặng nề tương tự.

Tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo và cũng không theo dõi một cách chi tiết từ đầu cuộc tranh chấp Thái Hà nhưng sau khi đọc các bài viết trên báo chí và những ý kiến mang nặng đầu óc Vệ binh Đỏ trên các trang web trong nước so với toàn văn bài phát biểu của đức cha Ngô Quang Kiệt, tôi cảm thấy vô cùng bất nhẫn. Nguyên văn câu nói của đức Tổng Giám mục Hà Nội như thế này: “Do đó, chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng.”

Nếu tất cả những người biết đọc biết viết có cơ hội đọc nguyên văn bài phát biểu của đức cha Ngô Quang Kiệt và ngồi xuống lắng lòng suy nghĩ về những lời nói tự nhiên và chân thành của ngài mà tôi vừa trích dẫn, họ sẽ hiểu ra rằng chẳng những đức Tổng Giám mục không nhục mạ dân tộc mà còn là người có lòng yêu nước sâu đậm. Câu nói của đức cha Ngô Quang Kiệt không có một chữ nào dù trực tiếp hay gián tiếp, dù nghĩa đen hay nghĩa bóng gọi là phỉ báng dân tộc; ngài chỉ nói lên sự quan tâm, bức xúc của mình trước một Việt Nam yếu kém, thua sút đối với các quốc gia trong cùng một châu Á như Nhật Bản, Nam Hàn. Mặc cảm làm người dân của một đất nước bị phân hóa, hoài nghi, chia rẽ, nghèo nàn, tham nhũng, không được kính trọng mà đức cha cảm nhận trong những chuyến đi xa vẫn ngày đêm ám ảnh trong ý thức của ngài. Và đức cha hẳn đã nhiều lần tự hỏi làm sao dân tộc Việt Nam có thể vượt qua được cái bất hạnh của chính mình để đi đứng ngang hàng với các quốc gia khác. Nếu không phải là người yêu nước và biết tủi thẹn với những hy sinh xương máu của tổ tiên, nếu không mang trong lòng những thao thức về đất nước, đức cha đã không buông ra những câu nói đó. Càng yêu nước càng thấy đau cho đất nước, càng yêu lịch sử hào hùng của tổ tiên càng cảm thấy nhục nhã phải làm người Việt Nam trong thời đại hôm nay. Và hai điều kiện để có thể vượt qua cái nghèo nàn, yếu kém không gì khác hơn là “đoàn kết dân tộc” và đưa “đất nước lớn mạnh” như đức Tổng Giám mục đã phát biểu hôm 20 tháng 9. Những ai đang trăn trở về đất nước đều ý thức rằng không có đoàn kết đất nước sẽ không thể nào lớn mạnh và một đất nước không lớn mạnh sẽ không được thế giới kính trọng.

Nếu không đúng như thế, hãy chỉ cho tôi một niềm tự hào dân tộc.

Tự hào đã đánh thắng đế quốc Mỹ ư?

Có lẽ đó là chuyện mà những người có ý thức không ai còn muốn nhắc hay đem ra tranh cãi. Không phải vì thời gian đã trôi qua hay muốn quên đi quá khứ mà vì ngày nay sách vở viết về mưu đồ của Trung Quốc và Liên Xô trong cuộc chiến Việt Nam không còn hiếm hoi như trước. Sự thật về cuộc chiến đã phơi bày một cách chi tiết về con số bao nhiêu ngàn quân Trung Quốc đã tham chiến tại Việt Nam cũng như bao nhiêu vũ khí mà các đế quốc cộng sản đã đổ xuống Việt Nam. Nếu có một thống kê chính xác, tôi tin số người dân Việt Nam vô tội bị giết bằng súng đạn của Liên Xô và Trung Quốc còn vượt xa số người chết do bom đạn Mỹ gây ra, bởi vì chiến trường diễn ra ở miền Nam chứ không phải miền Bắc. Thế thì ai mới đáng gọi là quân xâm lược đây? Nói như thế để so sánh chứ không có nghĩa là binh vực Mỹ. Đế quốc nào cũng là đế quốc và trò chơi của họ được tính bằng xương máu của các dân tộc nhược tiểu, trong đó có Việt Nam. Khi gài Liên Xô vào chiếc bẫy Afghanistan để trả thù cho thất bại của Mỹ tại Việt Nam, Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Jimmy Carter, chắc chắn đã không quan tâm đến số phận của hàng triệu dân Afghanistan sắp sửa chết dưới bàn tay của Liên Xô xâm lược. Và hôm nay, hai mươi năm sau khi quân đội Liên Xô rút đi và cả hệ thống cuối cùng đã sụp đổ, Afghanistan vẫn còn là một bãi chiến trường. Khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, kẻ ngậm đắng nuốt cay không phải là Mỹ mà chính là Trung Quốc khi biết rằng thằng em cộng sản mà họ đã tốn bao nhiêu công sức nuôi nấng từ lúc khó khăn đã quay lưng phản bội đàn anh. Cuộc chiến Việt Nam đã mang Trung Quốc và Mỹ lại gần nhau hơn và trong trận chiến tranh Việt - Trung năm 1979, để lôi kéo Trung Quốc vào phe chống Liên Xô, các cơ quan tình báo Mỹ đã cung cấp cho Trung Quốc các tin tức về khả năng quân sự của phía Việt Nam. Mỹ đưa quân sang Việt Nam ồ ạt từ giữa 1965 chẳng phải vì chính nghĩa quốc gia. Chính nghĩa quốc gia, lý tưởng tự do dân chủ là của nhân dân miền Nam, những người đã sống, chiến đấu và chết trong cuộc chiến tự vệ đầy anh dũng từ 1954 đến 1975. Có hay không có người Mỹ, nhân dân miền Nam cũng đứng lên bảo vệ các giá trị tự do mà họ đã chọn lựa và theo đuổi.

Tự hào về giang sơn gấm vóc ư?

Hãy nhìn ra Biển Đông, hai quần đảo quan trọng về cả quân sự lẫn kinh tế đang nằm trong vòng kiểm soát của hải quân Trung Quốc. Lịch sử như đang diễn ra theo một chu kỳ. Sau gần hai thế kỷ ngập chìm trong khói lửa, tương quan kỹ thuật quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng không khác gì thời quân đội nhà Nguyễn đánh nhau với liên quân Pháp - Tây Ban Nha. Cái thuở tầm vông vót nhọn đương đầu với súng thần công và thuyền buồm ghe gỗ đương đầu với tàu chiến được đóng bằng sét thép lại tái diễn. Từ xưa đến nay, Trung Quốc luôn chọn chiến tranh thôn tính như là phương pháp thích hợp nhất để giải quyết mọi cuộc xung đột với các nước nhỏ láng giềng. Khi dùng những chữ “trừng phạt” hay “dạy Việt Nam một bài học” theo giọng điệu của vua quan phong kiến thời nhà Tống, nhà Minh, trong đầu óc của lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, Việt Nam vẫn còn là một trong số chư hầu của họ.

Việt Nam và Trung Quốc có thể vài năm hay vài chục năm nữa rồi sẽ cũng đánh nhau. Tuy nhiên, nếu chiến tranh nổ ra vào thời điểm này, toàn bộ khả năng quân sự của Việt Nam có thể bị Trung Quốc vô hiệu hóa trong vòng vài giờ. Cái may mắn cho Việt Nam là vị trí của Trung Quốc ngày nay trên chính trường quốc tế không phải là một Trung Quốc mới bắt đầu chương trình hiện đại hóa vào năm 1979 khi họ xâm lăng Việt Nam. Trung Quốc ngày nay là một trong những siêu cường quốc hàng đầu thế giới nhưng đồng thời cũng là một siêu cường quốc dễ vỡ (fragile superpower) theo giáo sư giáo sư Susan L. Shirk trong tác phẩm nghiên cứu về Trung Quốc. Trung Quốc đang cần sự ổn định để duy trì mức phát triển và chạy đua với các cường quốc trong G8. Đối tượng cạnh tranh của Trung Quốc là Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Ý, Anh, Canada, Nga chứ không phải Việt Nam. Một cuộc chiến có tác động quốc tế như năm 1979 có thể không diễn ra trong thời gian trước mắt, nhưng những đụng chạm ở tầm địa phương sẽ xảy ra liên tục.

Trung Quốc biết rằng trong một cuộc chiến tranh toàn diện với Việt Nam, dù có thắng về quân sự thì phần bất lợi kinh tế chính trị cũng nghiêng về phía họ, nhưng đồng thời họ sẽ không bao giờ để yên cho Việt Nam phát triển. Hải quân Trung Quốc sẽ tiếp tục bắn giết ngư dân Việt Nam như họ đã làm suốt ba chục năm qua, hạm đội Trung Quốc sẽ tiếp tục đe dọa hải lưu Việt Nam và chính phủ Trung Quốc sẽ ngăn chặn bất cứ một quốc gia nào hợp tác với Việt Nam để khai thác nguồn dầu khí quan trọng trong thềm lục địa của Việt Nam. Việt Nam sẽ làm gì? Đưa cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa ra Liên Hiệp Quốc? Liên Hiệp Quốc là ai nếu không phải là một Trung Quốc có quyền phủ quyết? Cầu viện Mỹ làm trung gian giải quyết chăng? Đế quốc không có bạn hay thù mà chỉ có quyền lợi, và với chính sách đối ngoại hàng hai của Việt Nam hiện nay, cái lợi Mỹ thu về chưa hẳn lớn bằng cái lợi họ có thể bị mất đi.

Tự hào về quá khứ oai hùng của dân tộc ư?

Không một người Việt Nam có ý thức dân tộc nào mà không biết hãnh diện với lịch sử hào hùng của dân tộc, nhưng đừng quên rằng dân tộc nào cũng có niềm tự hào riêng của họ. Một nước Bamahas có nền độc lập chỉ mới được ba mươi lăm năm (1973) nhưng không có nghĩa là người dân Bahamas ít hãnh diện về đất nước họ bằng một người Việt Nam có hơn bốn ngàn năm lịch sử. Ngoài ra, một truyền thống nếu không được kế thừa và phát huy một cách thích nghi với thời đại thì truyền thống đó sẽ sớm trở thành một thói quen lạc hậu và sẽ chết dần theo thời gian. Biết bao dân tộc vốn đã có một nền văn minh rực rỡ, có truyền thống tốt đẹp từ mấy nghìn năm trước nhưng các thệ hệ sau đã không biết giữ gìn và phát huy, cuối cùng cũng đi vào viện bảo tàng, và nếu còn được nhắc nhở chăng cũng chỉ trong giáo trình của các khoa văn minh hay nhân chủng học. Tôi chia sẻ tâm trạng của đức cha Ngô Quang Kiệt. Tôi cũng có dịp đi khá nhiều, tham dự nhiều hội nghị, làm việc trong một môi trường nơi các đồng nghiệp đến từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ đem chuyện Việt Nam ra bàn trước với ai và rất khó chịu mỗi khi nghe ai nhắc đến Việt Nam, đơn giản bởi vì tôi biết sẽ không có câu bình luận nào tốt đẹp theo sau. Việt Nam cho đến hôm nay vẫn còn đồng nghĩa với chiến tranh, nghèo đói, độc tài.

Có gì đáng tự hào khi Việt Nam vẫn còn bị xếp vào một trong những nước tham nhũng trầm trọng trên thế giới. Trong thống kê 2008 vừa được tổ chức Transparency International ( http://www.transparency.org/news_room/in_focus/2008/cpi2008/cpi_2008_table ) công bố, Việt Nam bị xếp vào hàng 121 trong tổng số 180 nước được thăm dò. Phần lớn những nước đứng sau Việt Nam là các quốc gia Á - Phi nghèo nàn, lạc hậu. Báo chí Việt Nam đồng loạt đăng tải thống kê như loan báo một tin mừng bởi vì Việt Nam được tăng hai bậc so với thống kê 2007, mặc dù nước đứng sau Việt Nam không phải là thứ 122 mà là 126, vì có 5 quốc gia cùng hạng với Việt Nam. Trong lúc tham nhũng tại nhiều nước trong thế giới phát xuất từ lòng tham có tính cách cá biệt, tham nhũng tại Việt Nam có tính đảng, từ trong cơ chế mà ra và sẽ tồn tại cùng với cơ chế. Làm sao xây dựng một chế độ chính trị trong sạch khi toàn bộ quyền hành nằm trong tay một thiểu số người nắm quyền sinh sát cả một dân tộc? Mỗi khi có một ý kiến mới không hợp với chủ trương của Đảng gióng lên là toàn Đảng xúm vào đánh hội đồng, như vậy thì đất nước làm sao thăng tiến? Một đức Tổng Giám mục, lãnh đạo tinh thần của nhiều triệu tín đồ và có một vị trí quốc tế mà còn bị đối xử như vậy thì một người dân thấp cổ bé miệng ở các thôn làng xa xôi hẻo lánh sẽ bị đối xử ra sao?

Có người còn chiêm bao rằng một ngày nào đó Việt Nam sẽ trở thành một Singapore và Đảng Cộng sản Việt Nam cũng sẽ hoạt động giống như Đảng Nhân dân Hành động Singapore (People Action Party, gọi tắt là PAP) với các nhà lãnh đạo tài ba và liêm khiết. Đó chỉ là một mơ ước hão huyền. Trứng ngỗng chỉ có thể nở ra ngỗng. Nguồn gốc hình thành, cơ cấu lãnh đạo và mục tiêu của PAP hoàn toàn khác biệt so với Đảng Cộng sản Việt Nam. PAP là tập hợp những chuyên gia trí thức Singapore có tinh thần độc lập dưới sự lãnh đạo của Lý Quang Diệu, một nhà chính trị có tầm nhìn vượt xa thời đại và đã thắng cử qua một cuộc bầu cử tự do hợp pháp năm 1959. Các thành phần đối lập tại Singapore thời đó tuy thất cử nhưng vẫn hoạt động và tiếng nói của họ vẫn có một ảnh hưởng quan trọng trong đời sống chính trị quốc gia trong giai đoạn vừa giành được nền độc lập một cách hòa bình từ thực dân Anh. Trong lúc các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam phải sang chầu Trung Quốc hàng năm để xin súng đạn, Lý Quang Diệu không thấy cần thiết ngay cả việc thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước có chủ quyền toàn vẹn. Những biện pháp cứng rắn của chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore tách khỏi Liên bang Mã Lai vào năm 1965 là nhằm bảo vệ sự tồn tại mong manh của hòn đảo nhỏ này và ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản với sự yểm trợ tích cực của Trung Quốc. Mãi đến tháng 10 năm 1990, khi Singapore đủ mạnh về kinh tế và ổn định về chính trị, Lý Quang Diệu mới thừa nhận Trung Quốc. Trong thời kỳ mà “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” vào Nam “chống Mỹ cứu nước” thì các nhà lãnh đạo Singapore và nhiều lãnh đạo sáng suốt ở châu Á đã lợi dụng chính sách chống cộng của Mỹ ở châu Á để hợp tác và phát triển kinh tế, nhờ đó, không chỉ nền kinh tế Singapore mà nhiều nước nhỏ khác ở châu Á như Nam Hàn, Đài Loan cũng đã lần lượt cất cánh và trong một thời gian ngắn được thế giới ca ngợi như là những con rồng châu Á.

Có gì đáng tự hào khi Việt Nam, một dân tộc có hơn bốn ngàn năm văn hiến nhưng ngoại trừ một thời gian ngắn ở miền Nam trước 1975, đại đa số nhân dân chưa bao giờ có một cơ hội để bầu người đại diện cho mình trong các cơ quan nhà nước. Cuộc chiến tranh lạnh đã chấm dứt. Sự phân cực thế giới dựa trên ý thức hệ không còn nữa. Lịch sử văn minh nhân loại được lật sang một chương khác. Hành trình của loài người đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên dân chủ và phát triển toàn diện. Các quốc gia cộng sản trước đây đã bừng tỉnh sau cơn ác mộng dài và đang hăng say làm lại cuộc đời. Từ một thời được xem là chư hầu của Liên Xô, các nước Đông Âu đã trở thành những thành viên kinh tế thương mại và cả chính trị quân sự quan trọng của cộng đồng châu Âu và thế giới. Việt Nam thì sao? Việt Nam là một trong chỉ 5 nước cộng sản của phong trào cộng sản thế giới còn sót lại, nơi con người sống trong bất an, nơi tất cả những quyền căn bản mà phần lớn mà nhân loại thụ hưởng đã không được tôn trọng. Một trong những chương trình thống kê gây nhiều chú ý nhưng cũng nhiều tranh cãi là thống kê về “Những quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới” ( http://www.liveleak.com/view?i=c57_1214969155 ). Cánh chỉ trích cho rằng hạnh phúc là một trạng thái của ý thức, không thể đem ra cân, đo, đếm và xếp hạng như các đơn vị vật lý. Cánh ủng hộ cho rằng mục đích thực sự của thống kê không phải để so sánh giữa một người Đan Mạch và một người Zimbabwe ai hạnh phúc hơn ai, mà để đánh giá xu hướng ý thức của con người về hạnh phúc chuyển đổi theo thời gian. Xem xét kết quả 2008 không có ý nghĩa gì nếu không so sánh với kết quả 2007, 2006 cũng như với suốt 25 năm trước đó. Và theo giáo sư Ronald Inglehart, người điều hành thống kê World Values Survey trong 20 năm qua, kết luận sau buổi công bố kết quả thống kê năm 2008: “Nói chung, ý thức toàn cầu đang gia tăng về tự do trong phần tư thế kỷ qua đã che khuất các lý do thuần túy kinh tế về hạnh phúc”, và ông cũng tìm thấy quan hệ hỗ tương giữa hạnh phúc và dân chủ. Giải thích của giáo sư Ronald Inglehart cho thấy hạnh phúc gắn liền với tự do dân chủ và đó cũng là xu hướng của thời đại. Việt Nam được xếp hàng thứ 36 trong bảng thống kê. Lẽ ra phải cao hơn. Rất tiếc Bắc Hàn không nằm trong danh sách các nước được thăm dò, nếu có, họ đã được xếp vào hàng thứ nhất.

Giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam có tật giật mình nên hiểu chữ “nhục” theo nghĩa tiêu cực như một hình thức cúi đầu, chịu làm tay sai cho ngoại bang. Đúng ra, cảm thấy nhục nhã không phải là thái độ phản quốc; trái lại trong hoàn cảnh đất nước hôm nay, biết nhục càng nhiều càng tốt. Ngoại trừ những kẻ ngày đêm sống trong bóng tối mới không thấy được cái yếu kém của đất nước. Muốn vượt qua cái nhục, cái yếu hèn, không nên trốn tránh mà phải đối diện với chúng. Nỗi nhục chính là phân bón cho cây xanh hy vọng của tương lai dân tộc được vươn lên tươi tốt. Trong suốt dòng lịch sử, dân tộc Việt Nam đã hơn một lần chịu nhục. Lời trách mắng của Hưng Đạo Đại Vương hơn bảy trăm năm trước như còn văng vẳng đâu đây: “Ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; Thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn”. Vâng, cũng từ cái đau xót, cái nhục nhã, cái nhược tiểu của dân tộc Việt Nam mà thời đó tổ tiên chúng ta đã đứng lên đánh bại cả một đạo quân Nguyên hùng mạnh mà vó ngựa đã giẫm nát cả một phần lớn châu Âu và châu Á.

Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn nhưng không phải là không có một phương pháp giải quyết. Như đức cha Ngô Quang Kiệt đã nhấn mạnh trong buổi gặp gỡ Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội hôm 20 tháng 9, phương pháp đó là: “Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng”. Đảng đã xé ra thì Đảng phải rào lại. Đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của Đảng, nhưng đoàn kết không bao hàm nghĩa đầu hàng mà phải dựa trên sự bình đẳng, tương kính giữa các thành phần dân tộc và tôn trọng nhân phẩm con người với tất cả quyền tự do bẩm sinh của họ. Và nếu không làm được điều đó thì chính các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không ai khác là những người phỉ báng dân tộc Việt Nam.

© 2008 talawas

Những động thái hạ cấp được sử dụng đối với TGM Hà nội và giáo dân Công giáo

VietCatholic News (Thứ Ba 30/09/2008 12:13)

Những động thái hạ cấp được sử dụng đối với TGM Hà nội và giáo dân Công giáo

CSVN hành động phi pháp khi đạt máy "nghe trộm cách công khai" và ghi hình khu Tòa TGM Hà Nội


Công an cộng sản đang dùng máy nghe trộm để giăng xung quanh Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội chứng minh rằng công an trong xã hội cộng sản Việt Nam siêu quyền lực không cần phải xin phép ai, công khai đặt máy nghe trộm (trong hình là máy nghe trộm điện thoại qua sóng thu phát chúng đặt ngay trên mái nhà trường Hoàn Kiếm sát cạnh TTGMHN - Trước đây là trường Dũng Lạc của Công Giáo). Họ chiếm cả một phòng học, hàng ngày có các công an thay nhau ra vào mang dữ liệu đi phân tích. Luật pháp trên giấy của ngụy quyền cộng sản không có điều khoản nào cho phép làm việc này.



Giáo xứ bé nhỏ vùng sâu vùng xa bị bọn côn đồ được huê mướn hành hung

Tại giáo xứ Mạc Thượng thuộc Giáo phận Hà Nội (theo địa giới hành chính thuộc Huyện Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam) Công an cho côn đồ vào giáo xứ, nơi Linh mục Phương cai quản, chúng chửi bới, ném đá vào nhà xứ và nhà giáo dân Công Giáo sống quanh nhà xứ. Mạc Thượng là một xứ đạo nhỏ chỉ có khoảng 300 giáo dân, nhưng hiện tại thanh niên đã đi làm ăn xa nhà, chỉ có mấy ông bà già và con trẻ ở nhà, tổng cộng còn khoảng 200 người. Giáo dân ít, côn đồ lộng hành nhục mạ và đánh đập giáo dân. Giáo xứ ít người và nghèo, đến mức cha xứ cũng không có máy để ghi lại âm thanh hình ảnh.

Một giáo dân ở đây khẩn khoản nói rằng: "Xin quí đồng bào lên tiếng bảo vệ giáo dân là người già, trẻ nhỏ không có khả năng tự vệ!"

Kế hoạch "thuê nhân dân" để làm nhiệm vụ đi "biểu tình ôn hòa" chống Tòa TGM Hà nội

Mấy ngày gần đây, có thông tin về việc công an và chính quyền Hà Nội lên kế hoạch "thuê nhân dân" là mấy ông bà về hưu, thanh niên không nghề nghiệp đang ở nhà, tham gia dân phòng tại địa phương thuộc mấy phường khu vực gần Toà Tổng Giám Mục Hà Nội như: Phường Lý Thái Tổ, Phường Tràng Tiền, phường hàng gai, Phường Cửa Đông. Với mức thuê là 20.000VNĐ/người để làm nhiệm vụ đi "biểu tình ôn hoà" ở Toà TGM Hà Nội phản đối TGM cũng như Công Giáo "đòi đất trái pháp luật". Phương án của họ khá rõ ràng bao gồm việc phân công trưởng nhóm là đảng viên, các thành viên trong hội phụ nữ, hội người cao tuổi, hay các tổ hưu. mỗi nhóm có từ 50 đến 100 người, cầm cờ, đứng trước cổng Nhà Thờ Lớn và Toà Khâm Sứ hô khẩu hiệu.

Những "nhân chứng được thuê" phát biểu cảm tưởng của mình

Phóng viên VietCatholic vào cuộc tìm hiểu thì được biết việc này có thật, qua trao đổi với bà NT Dung – Cán bộ Thuộc TCT Hapro Hà nội đã nghỉ hưu tại Phường Hàng Gai -- được bà cho biết: Bà lấy chồng về sống tại phố Hàng Tr. gần nhà thờ Lớn đến nay đã gần 50 năm, không thấy người Công Giáo làm điều gì sai trái. Sự việc đòi đất thì trên toàn quốc diễn ra như cơm bữa... dân các tỉnh còn về Hà Nội khiếu kiện cả trăm cả ngàn người. Có những vụ đòi đất bà đựoc biết UBND cấp này xử lần 1 thì người này thắng, đến cấp cao hơn thì người kia lại thắng. Kể cả toà án cũng vậy, họ xử huỷ cả bản án rồi bắt điều tra lại... đang từ người này thắng kiện, sau lại thấy người kia thắng kiện. Việc Nhà Thờ đòi đất đâu có gì lạ? Họ đòi đất rõ ràng trước đây là của họ, chưa trả hay không trả thì cứ để đấy, sao nhà nước lại làm những việc mang tính chất áp chế bôi nhọ nhau, rồi xây vườn hoa như trò hề vậy?

Về việc đi biểu tình theo yêu cầu của chính quyền bà cho biết: Bà vừa tham gia hội phụ nữ, vừa tham gia hội người cao tuổi, nhưng bà không phải là đảng viên, ở phường họ vẫn vận động các cụ đi đón đoàn khách ngọai giao bằng cách đứng bên đường vẫy cờ. Bà rỗi việc vả lại cũng không muốn mất lòng cán bộ phường nên tham gia, Lần này họ có nói là đi mít tinh ủng hộ công viên Tòa Khâm Sứ khánh thành chứ không phải biểu tình. Bà sẽ tham gia, nhưng bà sẽ không hô khẩu hiệu, và đi lần này để xem nhà nước định xúi bẩy các cụ làm gì. Nếu sai quấy, nhất định không có lần sau.

Tìm hiểu một cụ ông cùng ở phố Hàng Tr. (cụ xin giấu tên vì đang là đảng viên) cụ cũng vừa bị rơi vào một vụ kiện tụng khổ sở chỉ vì nhà cụ bị hỏng bởi một liên doanh xây nhà cao tầng thuộc khu của hàng thực phẩm cũ (trên phố Nhà Thờ). Cụ đi tìm công lý, lóc cóc cả năm trời... rồi cuối cùng họ vẫn kết luận bồi thường cho cụ 50 triệu, không đủ để sửa chữa. Rồi cái liên doanh kia thuê một người hàng xóm kiện lại cụ, vu cáo cụ là chiếm một phần nhà của họ. Cụ phải lên cả công an quận giải trình. đến khổ, mà đấy là cụ là đảng viên, là cán bộ hưu trí chứ không phải dân đen quê mùa.

Cụ cho biết: Có việc chính quyền, cũng như đảng uỷ quán triệt việc các cụ đi biểu tình. Sau đó mấy anh công an cũng đến hướng dẫn các cụ phải làm gì. Cụ mới nói đùa: Chúng tôi già thế này nhỡ ra có chuyện gì thì sao? Anh công an có lẽ bằng tuổi cháu cụ nói một cách hồn nhiên: Chúng cháu đang mong cho các cụ "bị" mà... để còn giềng cho chúng nó một trận - Khiếp quá ! Như quân thù quân hằn vậy.

Hỏi quan điểm của cụ về đi biểu tình theo nhiệm vụ được giao, cụ có vẻ nói một cách thận trọng, xin được ghi nguyên văn: "Tôi sống năm nay là 79 tuổi rồi, làm gì cũng phải giữ đức cho con cháu, có nhà con giết bố để lấy tiền khởi đầu cũng chỉ mấy lời ăn gian nói dối của người lớn làm gương xấu. Chính quyền tự đặt mình trên nhân dân, rồi lại tự đặt cộng đồng dân này, dân kia đối lập với mình, không chịu nghe họ nói, bắt họ nói gì mình muốn nghe. Tai hại lắm. Xưa đi cướp chính quyền ở Hà Nội, chúng tôi không hình dung được là chính quyền nhân dân sẽ như thế này đâu! Nhiệm vụ chi bộ giao cho đảng viên đi biểu tình thì thì tôi đi thôi, tôi chẳng thấy có cái gì đáng biểu tình họ cả, thật buồn cười, nhưng thôi đi một lần cho lãnh đạo họ thấy trò hề này chẳng đi đến đâu. Căn bản phải là chính sách -luật pháp cơ."

Hỏi quan điểm của cụ về việc làm của giáo dân Công Giáo đối với các việc biểu tình cụ nói: "Thì cái gì người theo đạo cho là đúng thì cứ làm, tôi thì thấy họ chẳng làm gì sai cả. Phải như thế xã hội mới có đấu tranh, mà ông Mác đã nói đấu tranh là nguồn gốc và động lực của sự phát triển xã hội. Cái trò lấy nhân dân ra làm bình phong này bây giờ cổ lắm rồi, họ có thuê thì được đến 2 lần là hết, những người đi biểu tình, họ chỉ đi vì tiền hay vì cho xong chuyện. Không có cái tâm như người theo đạo thì làm gì được! Mà căn bản là người ta đúng, thì biểu cái gì người ta? Tôi dám đánh cược với anh người theo đạo cứ tập chung cầu nguyện đấu tranh cho lẽ phải, cái đám "biểu tình-xác không hồn kia" sẽ tự tan rồi không tập hợp được lần sau đâu mà! Tôi già rồi bây giờ nói chẳng ai nghe. Tiếc tuổi xuân!"

Phóng viên VietCatholic lưu giữ cả băng ghi âm, nhưng xin chưa đưa ra công khai theo yêu cầu của người trao đổi. Nhưng sẽ đưa ra công khai trong một ngày gần đây. Xin kết thúc câu chuyện mà không có lời bình gì thêm!
PV VietCatholic

Hình ảnh Chính quyền đặt nhiều máy móc theo dõi Tòa Tổng Giám Mục Hà nội - Huân Trần



















Một mạng lưới những máy nghe trộm, máy ghi âm, máy quay đang quây kín Tòa Giám Mục Hà Nội

VietCatholic News (Thứ Ba 30/09/2008 09:29)
TÒA TGM HÀ NỘI - Ghi nhanh từ Tòa Khâm Sứ những sự kiện như sau:

Chính quyền đặt máy theo dõi mọi hoạt động của Tòa Tổng Giám mục

Những máy móc thiết bị chăng tỏa khắp khu vực TGM

Tòa Tổng Giám mục không còn những công an, cảnh sát cơ động hay chó nghiệp vụ bao vây, khủng bố nữa nhưng giờ đây là một mạng lưới những máy nghe trộm, máy ghi âm, máy quay đang quây kín khu vực này.

Từ mái nhà của trường Hoàn Kiếm, nằm sát ngay phía sau của Tòa Tổng Giám mục, chính quyền đã cho đặt 2 thiết bị theo dõi và ghi lại mọi động tĩnh từ Tòa Tổng Giám mục, nhất là các cuộc họp bàn và điện thoại. Được biết, mỗi máy này được 5 công an ngày đêm túc trực 24/24 để điều khiển và theo dõi.

Từ mọi phía của Tòa Tổng Giám mục đều bị chĩa camera quan sát của chính quyền. Phía cổng chính Tòa TGM và các lối đi đều bị theo dõi nghiêm ngặt bằng những chiếc camera kỹ thuật số chuyên nghiệp.

Theo quan sát của chúng tôi, các camera này đều nối kết với máy trung tâm được đặt ở tòa nhà số 33 phố Nhà Chung – trung tâm bồi dưỡng chính trị của đảng tại quận Hoàn Kiếm. Do đó, có thể khẳng định rằng mọi hoạt động, lời nói từ Tòa Tổng Giám mục đều bị theo dõi và giám sát chặt chẽ.

Từ ngày 19/9 đến nay, các máy điện thoại di động trong khu vực Tòa Tổng Giám mục đều không hoạt động được do bị phá sóng.

Công viên chưa khánh thành đã khởi công… làm lại

Theo tính toán của Chính quyền, công viên Tòa Khâm Sứ đã phải được khánh thành vào ngày thứ bảy, 27/9 vừa qua. Tuy nhiên, có lẽ lo sợ các Thánh lễ ngày Chúa nhật có đông đảo giáo dân tham dự nên chính quyền đã lùi thời gian khánh thành công viên này.

Sau hai ngày mưa tầm tã, công viên Nhà Chung đã trở nên thảm hại. Các bồn hoa, thảm cỏ, cây cảnh… hầu hết đều đã bị chết úng, vàng úa. Công viên được xây dựng gấp rút và hết sức ẩu, không có các đường thoát nước, đất không được dầm kỹ nên chỉ sau vài trận mưa là bị úng lầy, cây cối vừa trồng đã bật rễ lên. Chiều nay, mấy chục công nhân lại tiếp tục công việc làm lại công viên. Một điều thật khôi hài, công viên chưa khánh thành đã khởi công… làm lại! Các máy dầm, máy xúc nhỏ, công nhân lại tấp nập làm việc như những ngày đầu.

Cuộc gặp gỡ giữa chính quyền và đại diện Tòa Tổng Giám mục

Chiều ngày 29/9/2008, ông Hoàng Công Khôi – chủ tịch và một số viên chức chính quyền quận Hoàn Kiếm đã vào làm việc với Tòa Tổng Giám mục. Cuộc họp này diễn ra trong không khí thẳng thắn và cởi mở.

Mục đích chính của cuộc họp này là chính quyền đề nghị Tòa Tổng Giám mục nhận lại Tượng Đức Mẹ Sầu Bi và Thánh Giá. Tuy nhiên, đại diện Tòa Tổng Giám mục Hà nội đã không chấp nhận và đề nghị phía chính quyền thu hồi quyết định phạt vi phạm hành chính không có cơ sở pháp luật đã ra đối với Tòa Tổng Giám mục.

Buổi làm việc kết thúc mà không đi đến một giải pháp nào thỏa đáng cho tình hình hiện nay.
Huân Trần

audio nvqg: bình luận về quan điểm của Hội Đồng Giám mục Công giáo

NĐT

bấm vào đây để tải xuống máy


Boomp3.com

Ô nhiễm môi sinh ở Việt Nam

Sông Lô

Bây giờ ruộng đã bê-tông
Cây đa đã cụt giòng sông đã què

(Ơi Cánh Đồng Quê (1))


Ô nhiễm môi sinh là một trong những mối lo ngại hàng đầu của nhân loại hiện nay. Với tình trạng môi trường sống bị các chất hóa học hay sinh học làm ô nhiễm gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự sống của muôn loài mà nạn nhân chính so với vô số nạn nhân của nó là con người và chính con người cũng là thủ phạm gây ra nó.

Môi trường sống của con người và muôn loài trên hành tinh này bao gồm có không khí, nước và đất đai. Tuy nhiên qua tiến trình phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hóa của nhân loại các nhà nghiên cứu về môi sinh đã phân định ra 5 dạng ô nhiễm môi sinh như sau:
Ô nhiễm không khí
Nguồn: National Geographic/Peter Essick

1. Ô nhiễm không khí như xả khói chứa bụi hay thải các chất hóa học vào bầu không khí.
2. Ô nhiễm nước như thải nước sinh hoạt, thải nước rác công nghiệp vào các vùng nước biển, sông hồ cũng như các chất ô nhiễm trên mặt đất thấm xuống mạch nước ngầm.

3. Ô nhiễm đất là đất bị nhiễm các hóa chất độc hại như sử dụng phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu hay những rác rưởi của sản xuất công nghiệp.

4. Ô nhiễm phóng xạ do chấc Urani được phóng ra từ các nhà máy điện hạt nhân, kho vũ khí, trung tâm nghiên cứu và các khu vực nổ bom hạt nhân như Hiroshima, Nagasaki, Chernobyl và các vùng thử bom nguyên tử của các cường quốc có bom nguyên tử.

5. Ô nhiễm tiếng ồn do các động cơ từ xe cộ, phi cơ hay do máy móc công nghiệp.

Bắt nguồn từ những ô nhiễm trên nó đã đẻ ra biết bao hệ lụy làm thay đổi môi trường sống mà những hiện tượng sau đây là những điển hình

– Hiện tượng nhiễm độc phóng xạ
– Hiện tượng biến đổi khí hậu
– Hiện tượng sa mạc hóa
– Hiện tượng xói mòn bờ biển
– Hiện tượng bão tố
– Hiện tượng hạn hán
– Hiện tượng lụt lội
– Hiện tượng cháy rừng v.v..

Riêng hàng năm hiện tượng nhiễm độc phóng xạ làm nhiễm độc 2.500 tỷ lít nước ngầm của trái đất. Nguồn nước nhiễm phóng xạ này sau đó sẽ lan vào lòng sinh thái như không khí, nước uống, đất đai làm ảnh hưởng đến cây cối, động vật, hoặc hòa tan vào nguồn nước sinh hoạt của con người mà thâm nhập vào cơ thể gây nên vô số bệnh tật đưa đến tử vong.
Ở những nước tiên tiến Châu Âu mà nhất là những nước Bắc Âu với trình độ dân sinh dân trí cao, ý thức bảo vệ môi sinh của người dân rất tốt như nước Đức, nơi người viết đang cư ngụ là một điển hình. Ở đây luật lệ bảo vệ môi sinh chẳng những khắt khe đối với các hãng xưởng hóa chất, các công ty chế biến lương thực thực phẩm, các công ty chế tạo vật liệu xây dựng v.v... mà còn ngay cả với người dân tiêu xài.

Chính vì vậy ngay từ đầu năm 1986, thấy được tầm quan trọng của môi sinh và cũng là nhu cầu cấp thiết sinh tử lâu dài của người dân, chính quyền Cộng Hòa Liên Bang Đức đã cho ra đời Bộ Môi trường, Bảo vệ thiên nhiên và An toàn phóng xạ. Trong những cuộc tranh cử, sẽ rất là thiếu xót nếu đảng phái tranh cử nào bỏ quên vấn đề bảo vệ môi sinh vào chương trình hành động của mình.

Hiện nay ở Đức có hơn 4 triệu người là thành viên của các tổ chức bảo vệ môi trường và chính quyền liên bang vẫn tiếp tục tuyên truyền và mở rộng công trình bảo vệ này.

Tại Cộng hòa Liên bang Đức việc tái sinh rác thải với hệ thống phân loại rác bằng những công đoạn dù là rất phức tạp nhưng hiện nay nó đã là một mẫu mực cho các nước tiên tiến trên thế giới noi theo và cũng chính nhờ hệ thống phân loại phức tạp này nước Đức đã có thêm được một ngành công nghiệp tái chế với hiệu quả kinh tế có thể nói là cao nhất nhì thế giới.

Lại nữa, như đã biết, thế giới đang đứng trước tình hình khan hiếm nguyên liệu ngày càng trở nên trầm trọng thì việc tái sử dụng những phế liệu như giấy, thủy tinh, kim loại và phế thải vật liệu tổng hợp đã trở thành một yếu tố kinh tế. Với khả năng vượt trội của mình, mỗi năm nước Đức tiết kiệm được gần 4 tỷ Euro cho chi phí về nguyên liệu và năng lượng qua việc tái chế cũng như phục hồi lại chức năng của phế liệu. Không chịu ngừng ở đây, mặt khác, hiện nay ở nhiều trung tâm thành phố với lưu lượng xe cộ lớn của nước Đức sẽ là vùng cấm cho những xe hơi cá nhân không có biển cho phép của bộ môi sinh. Nói cách khác, trong nỗ lực bảo vệ môi sinh của mình nước Đức đã tạo được nhiều khu vực giảm đi mức gây ô nhiễm của nó.

Thêm một điển hình khác, là kể từ đầu năm 2008 những chủ nhà cũng như những nhà ở phải xin cấp giấy phép năng lượng trong đó có quy định cụ thể về mức tiêu thụ năng lượng. Đồng thời chính phủ liên bang cũng trợ cấp cho những ai lắp ráp thêm thiết bị, vật liệu theo hướng tiết kiệm năng lượng và bảo đảm an toàn môi sinh. Ngoài ra còn có một điểm mà rất đáng tự hào và cũng rất thân quen với những khách hàng lương thực và thực phẩm của người Đức là cách đây 30 năm, năm 1978, tất cả những thực phẩm dưới dạng bao bì đều có dấu mộc xanh. Nó đã là biểu tượng được đóng lên các sản phẩm mà dân Đức cho là bạn thân của môi trường và sau đó ít lâu cũng chính dấu mộc xanh trên những bao bì đó đã cho phép tái chế lại và đã trở nên có ý nghĩa trên thị trường. Thế là nước Đức đã sớm trở thành vô địch thế giới về xử lý “rác” thải.

Đất nước người ta thì như vậy, còn đất nước Việt Nam thân yêu của mình thì như thế nào?

Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam của Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam ông Phạm Khôi Nguyên có cho biết về những nguy cơ suy thoái môi trường ở Việt Nam như sau:

Suy thoái môi trường đất, Suy thoái rừng, Suy giảm đa dạng sinh học, Ô nhiễm môi trường nước, (nước lục địa và nước biển), Ô nhiễm môi trường không khí và Quản lý chất thải rắn.

Theo bản tổng kết môi trường toàn cầu do Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) mới công bố cho thấy Việt Nam có hai thành phố nằm trong danh sách 6 thành phố bị ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất trên thế giới.


Theo tiến sĩ Hoàng Dương Tùng – Giám đốc Trung tâm Quan trắc và thông tin môi trường thuộc Cục Bảo vệ môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết:


Việt Nam đối mặt với tất cả các vấn đề được nêu trong báo cáo. Về nồng độ bụi, hai thành phố lớn nhất Việt Nam chỉ đứng sau Bắc Kinh, Thượng Hải, New Delhi và Dhaka. Mối đe doạ tiềm tàng này chắc chắn sẽ cản trở quá trình phát triển hơn nữa của các thành phố này.


Cũng theo một nghiên cứu về các chỉ số môi trường ổn định do Trường Đại học Yale (Mỹ) thực hiện trong năm 2006, Việt Nam đứng thứ hạng thấp nhất trong số 8 nước Đông Nam Á.

Mới đây, sự kiện “Vedan” đã làm xôn xao dư luận là một điển hình!

Hãng bột ngọt Vedan Việt Nam
Nguồn: .vedan.com.vn


Vedan là một công ty chuyên làm bột ngọt và bột mỳ nằm cạnh sông Thị Vải, huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai, hiện đang trở thành tâm điểm chú ý của dư luận sau khi cảnh sát môi trường phát hiện nước thải từ nhà máy không có bộ phận xử lý được đưa thẳng ra sông Thị Vải. Là một công ty lớn đã có thương hiệu ở Việt Nam, thế mà tại sao công ty này lại nhắm mắt làm bừa trong việc xử lý nước thải như vậy? Động cơ nào thúc đẩy họ? Luật pháp chưa đủ nghiêm minh hay bởi các cấp quản lý, chính quyền sở tại mắc bệnh vô cảm trước nguy cơ tác hại trực tiếp đến đời sống của dân? Hay những nhân viên phụ trách ở các cơ quan chức năng thuộc tỉnh Đồng Nai đã đổng lõa bao che? Hoặc các quan tham nối tiếp nhau nhắm mắt làm ngơ suốt 14 năm dài để cho công ty này tha hồ thao túng gây ô nhiễm trầm trọng trên sông Thị vải “Sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi”.
Tuy nhiên hiện tượng công ty Veda chỉ là một điển hình trong vô số công ty sản xuất công nghiệp vi phạm gây ô nhiễm môi sinh nằm rải rác khắp đất nước Việt Nam.

Những bài viết liên quan đến môi sinh đã được đăng nhan nhản trên khắp mặt báo trong nước dưới những đề mục mang tính “kêu cứu” đã là những bằng chứng hùng hồn cho vấn đế ô nhiễm môi sinh tại Việt Nam là như thế nào. Nào là,

– Trình trạng ô nhiễm không khí đang gia tăng ở Hà Nội và thành phố HCM
– Thừa Thiên– Huế: Nhiều cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường
– Sống chung với bãi rác
– Ninh Bình; Nhiều người dân sống chung với bụi, khí thải lò vôi
– Ô nhiễm đe dọa hàng trăm hecta tôm, lúa tại Bạ Liêu
– Chất thải nguy hại bị trộn lẫn và xử lý chung với rác sinh hoạt
– Sông Nhuệ, Sông Đáy kêu cứu
– Khẩn cấp Sông Cầu
– VN: Ô nhiễm làm cạn nguồn lợi thủy sản tại những vùng đất ngập
– Vĩnh Phúc: Kinh hoàng rác thải ở thôn Hoàng Oanh
– Hà Nam: Thả cửa làm ô nhiễm hay những „Làng ung thư“ đang kêu cứu....
Nào là, hiện nay tình trạng ô nhiễm nước ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng như các thành phố lớn khác ở Việt Nam là đáng quan ngại.

Rác ở bến phà Rạch Giá
Nguồn: travelblog.org/Ảnh Samantha Noone

Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt đã trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận như sông, hồ, kênh, mương mà không có hệ thống xử lý tập trung. Mặt khác, những cơ sở sản xuất chẳng những đã không xử lý nước thải mà ngay cả phần lớn các cơ sở y tế và bệnh viện vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải. Ngoài ra còn có một lượng rác thải rắn không nhỏ khác trong thành phố có nguy cơ gây ô nhiễm đã không thu gom hết được v.v… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng. Cũng nhân đây người viết xin trích ra một vài mẩu tin từ các báo trong nước báo động về tình trạng ô nhiễm.

Theo báo Lao Động số 63 Ngày 19/03/2007 – Những năm gần đây, với tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá nhanh, Hà Nội đang phải đối mặt với sự ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng. Không chỉ bị ô nhiễm nguồn nước ngầm, mà nguồn nước mặt ở Hà Nội cũng đang trong tình trạng báo động. và bài viết còn cho biết hiện nay Người sống lâu ở Hà Nội có tỉ lệ mắc bệnh cao hơn người mới đến cũng trong bài viết có đề cập đến vấn đề nước thải chưa được xử lý đổ thẳng ra sông, hồ đã cho biết:

Theo số liệu nghiên cứu mới nhất từ Sở Tài nguyên – Môi trường và Nhà đất Hà Nội, lượng nước thải của TP đang ngày càng tăng cả về lưu lượng và nồng độ các chất ô nhiễm. Hầu hết lượng nước thải chưa được xử lý đều đổ thẳng ra sông, hồ và dự báo đến năm 2010 là 510.000m3/ngày.

Qua số liệu quan trắc, môi trường nước ở 4 sông và một số hồ ở Hà Nội đã bị ô nhiễm tới mức báo động, nhất là ô nhiễm các chất hữu cơ, nước sông đã bốc mùi hôi thối gây ô nhiễm không khí xung quanh một cách trầm trọng. Ô nhiễm các sông thoát nước còn gây hậu quả đến ô nhiễm sông Nhuệ, sông Đáy, ảnh hưởng đến các tỉnh hạ lưu.

Một tin khác ở tờ báo Kinh Tế Nông Thôn đã báo động tình trạng ô nhiễm môi trường ở Đại Nài. Tờ báo cho biết,


Gần 10 năm nay, 1.230 hộ với 6.500 khẩu ở phường Đại Nài (Tp. Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh) bị “tra tấn” bởi bụi, khói và mùi hôi thối bốc lên từ bãi rác Nhà máy Sản xuất và Chế biến nhựa thông của Công ty TNHH Hà Vinh. Tình trạng người dân mắc các bệnh liên quan đến đường hô hấp xuất hiện ngày càng nhiều khiến bà con không khỏi hoang mang...


Hay bài viết “Ô nhiễm môi trường tại Việt Nam đang ở mức trầm trọng” từ 2 nguồn sau đây

http://env.hcmuaf.edu.vn/contents.php?id
http://my.opera.com/congnghesinhhocmoitr

cho biết,
Hà Nội và Tp. HCM nằm trong danh sách 6 thành phố ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất thế giới. Với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt trên 8%, Việt Nam đang đối mặt với một hiểm hoạ ô nhiễm ngày càng trầm trọng. Do tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh chóng, ô nhiễm môi trường tại Hà Nội và Tp. HCM đã trở thành một vấn đề trọng điểm của quốc gia. Các chuyên gia cho biết, nếu tính đến cả các tổn thất môi trường thì tốc độ tăng GDP thực tế của Việt Nam sẽ chỉ là 3–4%.


Thật ra những hiện tượng để kêu cứu và cảnh báo trên chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm lớn và rất lớn.

Ngoài những ô nhiễm như đã nêu, ở Việt Nam còn có thêm một dạng ô nhiễm khác mang tính dài lâu làm ảnh hưởng đến nhiều thế hệ. Đó là nạn ô nhiễm môi trường đạo đức xã hội mà nguyên nhân độc hại chính là cái di sản văn hóa XHCN của chế độ độc tài cộng sản trong nước gây nên. Bạn đọc có ý kiến gì về dạng ô nhiễm độc hại này?

--------------------------------------------------------------------------------

DCVOnline biên tập, chú thích và minh hoạ.

(1) Toàn văn bài thơ Ơi cánh đồng quê của Trịnh Hoài Giang (Hải Phòng) sáng tác gần đây trong “Chùm thơ Đại Lải”.

Ơi cánh đồng quê

Bây giờ ruộng đã bê-tông
Cây đa đã cụt, dòng sông đã què
Mái đình đã phẳng đường xe
Còn đâu cánh võng mà nghe chuông chùa
Hội làng thì đã ngày xưa
Thôi anh đừng có tiễn đưa làm gì
Em chào thầy mẹ em đi
Làm ô-sin chả biết khi nào về
Heo may thổi dọc triền đê
Nghe câu dự án (*) mà tê tái lòng
Người đi thì đã ngàn trùng
Người về, đất có còn không mà về (**)
Giật mình nửa tỉnh nửa mê
Cánh đồng quê, cánh đồng quê, cánh đồng.

Nguồn Thơ Trịnh Hoài Giang


(*) “Dự án” trong bài thơ chỉ việc “mở rộng địa giới thủ đô”. Nay việc này không còn là dự án vì đã được Quốc hội thông qua. Hẳn nhiên QH chỉ “nhất trí thông qua” sau khi Bộ chính trị đảng CSVN đã chuẩn y.
(**) Các lô đất đã được chia chác xong cả rồi nên mới thơ rằng, “...đất có còn không mà về”.
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5527
----------------------------------------------

Re: Ô nhiễm môi sinh ở Việt Nam
2008-09-30 06:06:23

LaGiang


KHI NHỮNG TÊN CSVN CHỈ BIẾT CHÉM GIẾT CẢ CUỘC ĐỜI NAY RA LÀM KỶ NGHỆ!

A. KHI MỘT BỌN CHỈ NHẮM THÀNH CÔNG CỦA GIAI ĐOẠN MÀ THÔI!

1.- Đặc trưng của các tên gộc CSVN là chì biết giai đoạn thôi! Chúng bất chấp các hiệu qủa ta hại lâu dài. Làm sai rồi sửa. Sửa lại càng sai.

2.- Các dẫn chứng sau đây: CCRĐ, xâm lăng VNCH. nhượng hải phận và HS/TS, tiến nhanh lên XHCN, tù đày 300' 000 cựu quân nhân VNCH, đánh tư bãn mãi bản.

3.- Có cái nào ra cái nào đâu. Vì chúng chỉ biết giai đoạn ấy thôi. Nay chúng buớc vào kỷ nghệ hóa với cái đầu ấy! Cho nên vấn để phá mội trường từ loại đầu trâu trán chó nầy tạo ra là lẽ đương nhiên.

B.- KỶ NGHỆ LÀ KHOA HỌC:

1.- Khi dùng chính trị lãnh đạo khoa học. Khoa học ấy sẽ trờ thành con quái vật tàn phá từ con nguời tới môi trừơng. Tình trạng tại VN hôm nay là một bằng chứng.

2.- Khi dùng khoa học chỉ nhắm lợi nhuận và không nhắm phục vụ con người. Thì lợi nhuận ấy bắt con người và môi truờng trả gía các hậu qủa. Tình trạng con người và mội truờng VN là một tố cáo tội ác không những cho thế hệ hôm nay và nhất là cho ngày mai.

3.- CSVN có bao giờ, sau các chém giết và phá hoại, có đặt câu hỏi nầy đâu: " Định để lại cái gì đây cho mai sau? ".

4.- CSVN từ ruùng ra có biết dân là ai và khoa học là cái gì đâu! Chừng chỉ nhỉn khoa học dưới khía cạnh tạo ra nhuận lợi cho chúng thôi. Cái chết là điểm nầy! Còn mặt trái của khoa học. Chúng bất biết.

C.- CHỔ NÀO CÓ CS ĐI QUA

1.- Chổ nào có CSVN đi qua. Chổ ấy trờ thành đất chết.

2.- Muốn cứu vãn: CSVN phải bị tiêu diệt ngay tức khắc. Sau đó sẽ có giải pháp cứu laị tất cả. Nhưng những hiệu qủa mà chúng để lại. Cần 50 năm sửa chữa.

Video: TV csvn cắt phim, xuyên tạc, vu cáo lời phát biểu của TGM NQ Kiệt HaNoi nhằm kích động quần chúng

Video: Sự kiện về phát ngôn của TGM Ngô Quang Kiệt
22/09/2008 14:35

Dưới đây là sự kiện về phát ngôn của ông Ngô Quang Kiệt - Tổng giám mục giáo phận Hà Nội và một số sự kiện tiêu biểu diễn ra trong tuần qua:

SAU KHI BỊ CẮT XÉN:





2008921201217_VC_hinh anh va binh luan_TGM_NQK - vtv


(Theo VTV)
http://www.hanoimoi.com.vn/vn/68/181352/
----------------------------------------------------------------------
NGUYÊN VĂN:



- 20/9/2008 : Phát biểu của TGM HaNoi Ngô Quang Kiệt tai UBND HN

TGM NQKiet


----------------------------------------------------------------------

Nhận xét:
Truyền thông csvn đã minh chứng cho công luận thấy "nghệ thuật", bản chất nói láo, gian dối, mị dân của cs về mặt tuyên truyền nhằm phục vụ mưu đồ của đảng !

Nhà nước cs hô hào: "sống và làm việc theo pháp luật, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ...";
Thế mà nhà nước cai trị trên nền tảng của : giả dối, lừa bịp, bất công, phi pháp, ... thì làm sao đạt được mục tiêu một xã hội an hòa, công bằng, đoàn kết, tiến bộ, dân chủ ... ???
Nhật ký rồng rắn - Trần Độ
NhatKyRongRan.pdf - Trần Độ

Doc, tài liệu Lãnh thổ lãnh hải - Công giáo đòi đất, công lý - ĐTM

Đỗ Thông Minh (Nhật)

1- Lãnh thổ lãnh hải : http://www.mediafire.com/?4famibfn0jt

2- Công giáo đòi đất, Công lý hòa bình: http://www.mediafire.com/download.php?my3maimznmz

Monday, September 29, 2008

VN vào toàn cầu hóa : bài 24: Tòa Khâm Sứ & Thái Hà và sự nhập cuộc của HĐGMCG vì Công lý & Hòa bình

Bình luận thời sự:

Đảng Cộng Sản Việt Nam tung ra “vạn biến”. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đứng trường tấn bất biến trong mục tiêu phục vụ Con Người viết hoa. Như kiềng ba chân, ba quan điểm bất biến của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay đã được trình bày rõ ràng là:

• Công Bý và Hòa Bình bất biến (về triết học và thần học)
• Nhân Quyền bất biến (về chính trị - Rule of Law)
• Quyền tư hữu bất biến (về xã hội, đại đồng và tiểu khang)

01-24.doc

Cs hiện thân thân của bạo tàn, bóng tối, vô thần, tà đạo (bá đạo), duy vật, cái ác.
Cs thì dùng Rule by Law (luật rừng), gian dối, bạo lực !!
Đó là cách làm của người/đảng phi chính nghĩa, sợ công lý, sợ sự thật, sợ ánh sáng !

Một cuộc đấu tranh giữa:
Hữu thần / vô thần;
Duy tâm / duy vật;
Thiện / ác;
Sự thật / gian trá;
Công lý / phi công lý;
Tự do / độc tài;
Dân chủ / đảng chủ, đảng cướp;
Chính nghĩa / phi nghĩa;
Công bằng / bất công, cướp bóc;
Quyền con người / sự nô lê, mọi quyền căn bản bị tướt đoạt;
Quyền tư hữu / thủ đoạn núp bóng gọi là thuộc về "nhân dân", từ đó đảng quản lý, cướp bóc, chia chác, bỏ túi, vì lợi ích đảng.

audio Phỏng Vấn LM Nguyễn Văn Khải - Giáo Xứ Thái Hà

Nguyễn Thị Trâm Oanh

Mãnh đất của giáo xứ Thái Hà nay đã bị chính quyền cộng sản biến thành công viên - bỏ của chạy lấy người - vậy tình hình hiện tại và trong những ngày tới như thế nào? Xin mời quý bạn đọc theo dõi buổi nói chuyện của LM Nguyễn Văn Khải do chị Nguyễn Thị Trâm Oanh thực



bấm vào đây để tải xuống máy



Boomp3.com

VNE

080929 Rfa pv Lm NV Thiet - Thai ha:

080929 Rfa pv Lm NV Thiet - Thai ha

Tìm hiểu phong cách thông tin của báo đài Hà nội

VietCatholic News (Thứ Hai 29/09/2008 15:17)

NHÂN VIỆC ĐẤU TỐ ĐỨC CHA KIỆT
TÌM HIỂU PHONG CÁCH THÔNG TIN CỦA BÁO ĐÀI HÀ NỘI

I. CON RẮN VÀ CON BÒ

Không biết vì sao thời sự Hà Nội vừa qua lại làm cho anh bạn tôi có hứng “sáng tác” dụ ngôn. Anh bảo: “có một thầy giáo dạy khoa sinh vật, một hôm dạy học trò rằng: con rắn thuộc loài bò sát. Các kẻ thù của thầy liền cắt ngang câu nói của thầy thành: “con rắn thuộc loài bò”. Sau đó họ liền loan tin thầy đã dạy: con rắn là con bò, và như thế là phản khoa học, không xứng đáng làm thầy giáo. Tin đồn loan đi tới tấp. Những người có óc phê bình không tin. Nhưng nhiều người có khi chưa hề bước vào lớp học, chẳng biết khoa học là cái gì, tự nhiên cũng rất đạo mạo phán quyết: tên nhà giáo đó dạy trẻ con những điều nhảm nhí, phản khoa học, phải bứng nó đi. Có những nhân viên nhà trường biết chuyện bảo các cụ đạo mạo ấy rằng: ông ấy không nói vậy đâu. Nhưng lệnh trên truyền xuống rằng: để giữ vững “kỷ cương” nhà trường, phải bảo rằng ông ấy có nói. Thế là một, hai, ba mọi người phải hô to nhiều lần: “nó nói con rắn là con bò”.

Câu chuyện cực kỳ phi lý. Nhưng mà nó họa lại y chang cách báo đài Hà nội đấu tố Đức cha Kiệt mới đây. Về chuyện chính quyền và báo đài Hà Nội cắt xén, đổi trắng thay đen lời nói của Đức cha Kiệt, thì dư luận đã râm ran từ Bắc chí Nam, và cả ở nước ngoài, nhiều ngày nay. Nhưng tôi nghĩ đơn giản nhất là cứ dựng hai cột song song, một bên là nguyên văn lời phát biểu của Đức cha Kiệt, một bên là cách trích dẫn và chấm câu của chính quyền và báo đài Hà Nội, thì mọi sự sẽ rõ ngay.



hoặc:


Chính quyền và báo đài xén trụi tư tưởng của người ta đi, chẳng khác nào chấm câu ở chỗ “con rắn là loài bò”. Và thế là con rắn thành con bò. Những lý do khiến cho ở nước ngoài người ta săm soi những ai cầm hộ chiếu Việt Nam, biến thành sự hổ nhục vì mang hộ chiếu Nhà nước XHCNVN. Cũng nên lưu ý ở đây là Đức Cha Kiệt không nói mình xầu hổ vì là người Việt Nam, trái lại Ngài muốn một nước Việt Nam được phát triển để khỏi bị người ngoài khinh re. Một ý tưởng yêu nước cổ võ những gì cần phải làm để cải thiện hình ảnh đất nước ở nước ngoài, thế nhưng đối với tuyên truyền của csVN thì biến thành một ý tưởng phản quốc, phản dân tộc.

Trước khi nói những lời bị đem ra đấu tố này, Đức Cha Kiệt đã nói khá dài về quyền tự do của người công dân, về đòi hỏi “sống và làm việc theo pháp luật”. Xem ra Đức Cha ngụ ý rằng chúng ta thiếu sự tôn trọng tự do của con người, thiếu tôn trọng pháp lý cũng là những nguyên nhân khiến cho ở nước người ta “săm soi” những người mang hộ chiếu Việt Nam. Một nguyên nhân nữa mà có lẽ Đức Cha quên không nói, là cái bệnh ăn không nói có, nhưng rồi Đức Cha sẽ có dịp nhớ ngay thôi khi “con rắn” của Đức Cha bị chính quyền và báo đài biến thành “còn bò”.

Kiếm được “con bò” này, chính quyền và báo đài Hà Nội mừng rơn, bởi vì cứ nhắm vào đó mà la hò ầm ỹ, la hò thật to, thế là khỏi phải nói đến tất cả những chuyện khác, nhận chìm hết, quên hết, khỏi phải đi vào nội dung.

II. BỐI CẢNH MỘT CHIẾN DỊCH TRUYỀN THÔNG

Anh Kh., một giáo dân Hà Nội, đã “phê bình” Tổng Giám Mục của mình như sau: “cái sơ hở của Đức Cha Kiệt là ngài đã phát biểu với một cung cách như bạn bè phê bình xây dựng lẫn nhau. Nhưng trước mặt Ngài hôm đó làm gì có bạn bè, chỉ có ông Nguyễn Thế Thảo thôi. Những nụ cười, những cái bắt tay, những lời hoa mỹ, những chén trà thơm, giả dối hết. Ông Thảo giăng cái bẫy, chỉ chờ có một cơ hội nhỏ là sẽ giáng đòn”.

Thật ra màn đấu tố Đức Cha Kiệt chỉ là cao điểm của một chiến dịch vu khống và đổi trắng thay đen mà chính quyền và báo đài Hà Nội đã khai diễn từ mấy tuần trước. Nhà Dòng và giáo dân Thái Hà là những người đầu tiên kinh nghiệm về vấn đề này. Trong vụ đòi miếng đất ở 178 Nguyễn Lương Bằng, chẳng những báo đài không nhắc một tiếng đến cơ sở pháp lý của Thái Hà, mà còn dựng đứng những chuyện không bao giờ có: các linh mục Thái Hà đã trương biểu ngữ chống chế độ, chống chính quyền; đã bắc loa công suất lớn từ nửa đêm về sáng, đã dùng những lời lẽ thô tục trong nhà thờ. Những chuyện xảy ra trước mắt hàng ngàn người, mà còn vu khống trắng trợn được, thì khó gì đối với một câu nói trong phòng họp kín? Đến khi Thái Hà nhân danh pháp luật đòi báo đài cải chính, thì báo đài trả lời là Thái Hà “lu loa”, còn những điều nói sai rõ ràng thì cho rơi vào sự im lặng đáng sợ.

Hôm khác nữa, đài truyền hình Hà Nội đưa một ông tự nhận là giáo dân về bên nhà thờ phỏng vấn. Giáo dân Thái Hà liền xúm lại hỏi thăm: “Thế tên thánh ông là gì? Ông thuộc xứ đạo nào? Linh mục chính xứ là cha nào?” Ông “giáo dân” vội lỉnh mất. Giáo dân lại năn nỉ các phóng viên: “Tôi là giáo dân thật đây, phỏng vấn tôi đi”. Đài truyền hình Hà Nội lại “im lặng đáng sợ!”.

Thế rồi sau đó lại một ông giáo dân nào nữa ở xứ Cần Kiệm, Giáo phận Hưng Hoá trả lời phỏng vấn truyền hình Hà Nội. Cha xứ và giáo dân Cần Kiệm lại kêu oan um sùm, rằng ông ấy là một ông công an, không có đạo. Giám mục Hưng Hóa ra thông báo tố cáo việc ngụy dựng danh nghĩa giáo dân. Thường thường là sau khi viết một bài báo bóp méo vụ việc, thì kiếm một ông, một bà nào đó ở rất xa Thái Hà nói mấy câu phụ họa. Nếu phải liệt kê từng trường hợp thì dài quá, vả lại mọi ý kiến đều đúc khuôn như nhau. Chỉ biết rằng lần lượt các linh mục Hà Nội, rồi giám mục Hưng Hóa cho đến tận Đức hồng y Mẫn ở Sài Gòn lên tiếng chống nạn ngụy tạo thông tin. Chả lẽ lần này lại nói rằng các hồng y, giám mục “lu loa”. Báo đài một lần nữa dùng “sự im lặng đáng sợ”, để ỉm đi những phản ứng đó, nhưng chiến dịch đả kích Thái Hà thì vẫn tiếp diễn.

Khi Đức Cha Kiệt còn ở nước ngoài, ngài đã gửi thư về ủng hộ Thái Hà. Từ đó, Đức Cha Kiệt đã ở trong tầm nhắm của chính quyền và báo đài Hà Nội. Phó chủ tịch ủy ban nhân dân Hà nội là ông Vũ Hồng Khanh đã ra chỉ thị cho các phương tiện truyền thông chuẩn bị đánh từ Tổng giám mục Kiệt đánh xuống. Hôm ông Vũ Hồng Khanh tiếp đoàn đại biểu linh mục và giáo dân Thái Hà, những người xem truyền hình đã cười húm với nhau: các ông đang ra vẻ cầm cân nẩy mực kia lại chính là người điều khiển chiến dịch đã kích.

Cho nên khi vụ đấu tố Đức Cha Kiệt nổ ra, thì không ai ngạc nhiên về tính cách tráo trở, ăn không nói có của những người chủ mưu, mà chỉ ngạc nhiên vì tại sao họ lại sử dụng phong cách tàn bạo đó trong một xã hội dù sao cũng đã bùng nổ thông tin, để nhắm vào một nhân vật có thể được đồng hóa với một cộng đồng đông tới bảy, tám triệu người, tự nhiên hằn học với một số người đông như thế vì lợi ích gì?

Trong vụ này chính quyền và báo đài có cái nét gì đó giống như một đứa trẻ bị bệnh tự kỷ. Tự kỷ là đứa trẻ bị rối loạn trong tương giao với người khác và với thế giới chung quanh. Có một hàng rào tâm lý, một hàng rào ý thức gì đấy mà nó không thể vượt qua. Nó cau có, bực bội, phá phách vì nó không tìm được lối thoát. Ở đây, chính quyền và báo đài Hà Nội ngụy tạo ra một vấn đề rồi cứ thế hằn học, la lối. Ngoài ra ai nói gì có vẻ cũng không nghe thấy nữa. Cả khi dư luận đã thấy rõ, người ta đã chứng minh rõ ràng là anh đã cắt xén, ngụy tạo một cách phi nghĩa, anh vẫn cứ một mực lặp lại mãi điệp khúc cũ cả chục, cả trăm lần.

Nhưng một đứa trẻ tự kỷ nó có khuôn mặt tự kỷ đâu. Nó đau khổ trong sự tự kỷ của nó. Đàng này người ta lại tự nguyện nhốt mình vào vòng tự kỷ. Chắc phải có nguyên nhân gì?

Nếu như chúng ta còn đang sống trong kỷ nguyên Stalin ngày xưa, mọi thông tin có thể bị bưng bít, để cho chính quyền và báo đài độc quyền ăn nói, thì vụ Đức Cha Kiệt chỉ nói lên tấm lòng độc ác của những người chủ mưu. Nhưng cái thời ấy đã qua rồi. Vụ việc đã phơi bầy trước dư luận rồi, mà người ta vẫn cố tình “tự kỷ”, thì ngoài sự độc ác còn cần một mức độ trâng tráo, bất cố liêm sỉ rất dày dạn.

III. NHÀ VUA CỞI TRUỒNG.

Viết tới đây, tôi lại nhớ đến câu chuyện “nhà vua cởi truồng” của văn hào Amdersen. Có một ông vua con ở một thành phố nọ rất hậu hĩnh và hống hách. Một hôm nghe nói có hai tay thợ dệt thiên tài sẽ dệt và dâng lên vua một tấm áo cẩm bào cực đẹp, có điều chỉ những ai thông minh mới nhìn thấy tấm áo cực đẹp đó, còn kẻ ngu ngốc thì chẳng thấy gì.

Liền đó, hai thợ dệt thiên tài dựng khung dệt vải. Vua đến thăm, ngài chả thấy gì. Nhưng như thế chẳng hoá ra ngài ngu đần lắm sao. Đâu có được. Ngu đần là sai chính sách rồi. Thế là vua cũng hết lời khen ngợi hai anh thợ. Mọi người cũng khen hai ông, rất đúng chính sách.

Đến ngày đại lễ, vua xuất hiện trước thần dân thủ đô. Mọi người khen nghĩ khen ngợi: “Ôi! Chưa bao giờ thấy cái áo nào đẹp thế, đẹp không thể tưởng tượng được!”. Nhà vua cũng rất hãnh diện trước sự trầm trồ thán phục của mọi người.

Trong đám đông, có một bé con, nó chả biết thế nào là chính sách. Nó buột miệng nói: “Ủa, nhà vua ở truồng!” Mọi người chết lặng. Sao bé con lại nói cái điều sai chính sách thế. Nhưng rồi có một vài người lẩm nhẩm: “thằng bé con nói đúng đấy chứ”. Rồi tiếng xì xầm loan xa: “nhà vua ở truồng!” tiếng xì xầm cứ vang dần lên như sóng cồn. Cuối cùng chính đức vua cũng nghe thấy. Nhưng lúc ấy thì muộn quá rồi, làm sao đi mặc quần áo được. Ngài đành cứ lấy hết vẻ oai phong lẫm liệt mà đi hết con đường vinh quang.

Tôi có cảm tưởng trong xã hội Hà Nội ngày nay, những đứa trẻ con như trong truyện cũng hơi đông, và tiếng xì xầm đồn cũng hơi mau. Nhưng chỉ vì những truyện bùn lắng nước đọng mấy hôm nay mà phải nại đến Amdersen là đỉnh cao nhân văn, tôi thật áy náy. Chẳng qua tôi muốn gợi lại câu truyện này là một lời chia tay buồn với những ảo tưởng áo đẹp từ nay đã mất đối với một số chức quyền và cơ quan truyền thông.

Lại nhớ ra rằng lễ kỷ niệm một nghìn năm Thăng Long Hà Nội sắp đến nơi rồi. Hà Nội dẫu còn nhiều nhếch nhác và tệ nạn, nhưng làm sao có thể quên Hà Nội đó đây vẫn còn phảng phất biết bao tinh hoa của ngàn năm văn vật, của giang sơn, trí khí. Trong những chiều sâu ẩn khuất của tâm hồn người Hà Nội, vẫn còn những giá trị tâm linh, tinh thần của truyền thống nghìn năm để lại. Vậy mà, ngự trị trên đất thủ đô này lại có những con người do đấu tố cải cách ruộng đất hay cách mạng văn hoá Trung Quốc phối hợp sinh ra thì người dân Hà Nội làm sao yên lòng được.

Hồng Nhâm
Kỳ sau: VÀI NHẬN ĐỊNH SƠ KẾT CHIẾN DỊCH ĐẤU TỐ
Hồng Nhâm

Một người ngoài Công giáo nghĩ gì về ông Ngô Quang Kiệt

VietCatholic News (Thứ Hai 29/09/2008 15:24)
Suy nghĩ của một người ngoài Công giáo:
Nghĩ gì về ông Ngô quang Kiệt

Trong những ngày qua, tổng giám mục Hà Nội là cá nhân được truyền thông Việt Nam ưu ái nhắc đến nhiều nhất. Riêng câu nói về tấm hộ chiếu của ông đã khiến truyền thông và dư luận tốn bao nhiêu thời gian, giấy mực. Từ quan nước vỉa hè đến công sở. Những người có vẻ có nhân cách tỏ ra bực bội về câu nói của ông trên truyền hình. Họ nhăn mặt phản đối. Chỉ chờ có thế, truyền thông lại có tiếp lý do để tuyên bố - quần chúng nhân dân bất bình.

Cái gọi là quần chúng nhân dân ở Việt Nam khi họ biểu lộ tình cảm thì người chín chắn chẳng ai lạ gì, lấy ví dụ các trận đấu trên sân Mỹ Đình thì rõ. Khi đội nhà chưa thắng hay chính xác là chưa thua. Khán giả Việt Nam hò hét cổ động tưng bừng. Nhưng khi mà đội nhà thua dến 0-2, cơ hội gỡ hoà không còn. Chính những khán giả mà báo chí từng ca ngợi tràn đầy lòng tự hào dân tộc này quay ngắt sang chửi rủa đội nhà, tiếp đến họ cổ vũ pha lên bóng của đối phương.

Cho nên nếu cho là tình cảm của quần chúng nhân dân là thước đo chính xác để đánh giá vấn đề nào đó, nếu không suy xét có thể dẫn đến sai lầm về suy nghĩ của cả một dân tộc. Ở trên sân bóng mọi thứ phơi bày còn thế. Huống chi trên mặt báo nhiều cái còn bị cắt xén, lồng ghép, che giấu.

Trong một trạng thái tình cảm khác mà ông Ngô Quang Kiệt là nguyên nhân. Rất nhiều người đã cảm thấy bất bình trước hành động không minh bạch của truyền thông Việt Nam. Nói rõ là thủ đoạn trắng trợn khi cắt xét câu nói của ông để bình luận khiến nhiều người không còn tin tưởng sự minh bạch hay khách quan của truyền thông nước nhà. Nếu để kết tội, có khi kết tội ông Kiệt làm truyền thông nước nhà mất uy tín thì có khi còn có lý hơn.

Theo những gì mà truyền thông Việt Nam liên tiếp đưa tín, mô tả... thì ông Kiệt là một con người nham hiểm, ngoan cố không chấp hành luật pháp. Kích động đám đông để gây sức ép với chính quyền, làm mất ổn định cũng như khối đoàn kết dân tộc. Ai tin điều này là do trình độ tiếp nhận thông tin. Hay việc làm của ông Ngô Quang Kiệt đúng hay sai, xin miễn bàn ở đây.

Duy có điều, nếu báo chí coi ông Kiệt là người cầm đầu, chủ mưu thì tôi hoàn toàn khâm phục ông. Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt là người dám làm, dám chịu. Điều mà những quan chức Việt Nam cần học tập ở ông linh mục này. Trong nhiều vụ bê bối ở Việt Nam từ sập cầu Cần Thơ, cứu trợ, lạm phát kinh tế, giáo dục, y tế. Người dân Việt Nam chỉ thấy mơ hồ nguyên nhân chung chung. Hiếm khi nào thấy một quan chức cấp cao có trách nhiệm trực tiếp vấn đề đó đứng ra nhận trách nhiệm. Hành động đi thăm những gia đình giáo dân bị bắt giữ vì phá tường ở 178 Nguyễn Lương Bằng của ông Ngô Quang Kiệt tuy bị gọi là kích động, nhưng xét về khía cạnh nào đó. Đấy là hành động nghĩa khí, cao cả đầy can đảm. Trong bối cảnh căng thẳng như vậy, động thái của ông rõ ràng là tiêu điểm để truyền thông chĩa mùi dùi hiếu chiến. Nhưng ông Kiệt vẫn đường hoàng làm. Vào các trường hợp thế này thì quan chức của nhà nước ta ắt hẳn sẽ né tránh vì lý do an toàn cho con đường quan lộ.

Tóm lại chúng ta thử đặt câu hỏi, những đảng viên, cán bộ của chúng ta khi mà có sự việc gì, liệu họ có dám đứng ra có những hành động như ông Kiệt trước một thế lực khác lớn hơn. Ví dụ như cấp huyện với tỉnh hay tỉnh với trung ương. Khó mà có lắm. Lẽ ra, qua những gì ông Kiệt làm, ngoài những thứ mà truyền thông lên án. Người lãnh đạo Việt Nam nào có lương tri nên cảm thấy xấu hổ về tinh thần trách nhiệm.

Người ta nói rằng vụ đòi đất quy tụ nhiều người thế này là do các thế lực thù địch trong và ngoài nước đứng đằng sau. Nhưng nếu những người theo đạo mà có một vị thủ lĩnh tinh thần, quan tâm đến họ như ông Kiệt. Thì việc hàng ngàn người không quản ngại đến đứng bên ông cũng là điều có thể hiểu được. Đây là một bài học đắt cho những ai đang ở cương vị lãnh đạo.

Trên cương vị cá nhân có con em học ở cạnh khu vực vườn hoa 42 Nhà Chung. Tôi xin gửỉ lời cám ơn chân thành đến ông Ngô Quang Kiệt và đồng bào công giáo, cũng như cám ơn nhà kiến trúc Lê Thế Thảo đã hợp tác với Công Giáo để xây dựng vườn hoa. Rất may vì dự án ban đầu xây trung tâm thương mại hay cái gì gì đó không được thực hiện. Tất nhiên là một vườn hoa cạnh trường học tốt hơn nhiều so với một nơi ăn chơi hay mua bán tiếp thị quảng cáo ầm ĩ như các siêu thị hay làm.

(Nguồn: Blog Người buôn gió)
Người buôn gió

Vấn đề của Bạo lực

VietCatholic News (Thứ Hai 29/09/2008 09:53)
VẤN ĐỀ CỦA BẠO LỰC

Sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 với sự kiện Tòa Tháp Đôi (Twin Towers) ở New York (Hoa Kỳ) bị phá hoại qua cái chết thảm khốc của hơn năm nghìn người dân Hoa Kỳ và một số người các nước khác, người ta nói nhiều đến vấn đề bạo lực (violence), lên án và đặt ra các tổ chức an ninh cấp địa phương và quốc gia nhằm ngăn chận bạo lực hoành hành tại nước Mỹ và trên khắp thế giới, thí dụ, Bộ An Ninh Nội Địa (Home Security Department) do Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush thành lập sau biến cố Sept. 11, 2001. Từ ngữ tiếng Việt với những chữ như bạo lực, bạo quyền, bạo loạn, bạo hành, bạo động, bạo chúa, bạo tàn, bạo bệnh, bạo chính, bạo nghịch, bạo ngược, bạo phát, bạo quân, bạo hổ bằng hà (hành động liều lĩnh, không có suy nghĩ chín chắn) cho người ta nhiều ý niệm phong phú về chữ bạo. Vấn đề bạo lực thật ra không phải là một cái gì mới mẻ nhưng đã có một lịch sử rất xưa cùng với sự xuất hiện của con người trên trái đất. Từ khi có con người là đã có bạo lực, và bạo lực đã được nhìn như một triết lý hành động, được áp dụng dưới nhiều chế độ chính trị qua thời gian cho đến thời đại ngày nay đặc biệt đối với vụ Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà dưới chế độ Cộng Sản tại Việt Nam thời gian gần đây.

1.- Bạo lực qua lăng kính tôn giáo, triết lý và lịch sử dưới ảnh hưởng nền triết học Á Đông.

Ngày xưa Mạnh Tử, một vị á thánh của Trung Quốc có nói “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (người thuở ban đầu tính vốn thiện) nhưng một vị môn đồ khác của Khổng giáo là Tuân Tử lại chủ trương “Nhân chi sơ tính bổn ác” (người thuở ban đầu, tính vốn ác). Ở đây chúng ta không tranh luận về vấn đề điều thiện hay cái ác thứ nào có trước nhưng một quan điểm có thể có sự đồng ý chung là bạo lực xuất phát từ tâm thức của con người mà nguyên do chính là vì sự đố kỵ và lòng tham lam.

Sách Sáng Thế (4, 1-15) trong Cưụ Ước đã kể lại câu chuyện bạo lực đầu tiên của loài người khi Cain, người con đầu của Ađam (và Eva) giết em mình là Aben chỉ vì Chúa đoái thương Aben và lễ vật y phụng hiến (Đ.M. Trần Đức Huân, Kinh Thánh Cựu Tân Ước, Ra Khơi Thánh Kinh Thiện Bản tái bản, Sài Gòn, 1971, trang 8). Sự đố kỵ mặc dù là với em mình đã khiến bàn tay Cain vấy máu và Thiên Chúa rất công bình khi phán quyết cùng Cain: “Vậy nay ngươi phải vô phước trên mặt đất, vì đất đã mở miệng hút máu em ngươi do tay ngươi đổ ra; ngươi cày bừa ruộng đất mà chẳng thu được hoa trái, ngươi sẽ đi dông dài trốn tránh trên mặt đất.” (Trần Đức Huân, Sách đã dẫn trang 8-9). Sách Sáng Thế cho biết khi Cain thưa cùng Đức Chúa về nỗi lo sợ của y sẽ bị người khác gặp mà giết thì Đức Chúa đã trấn an người con đầu của Ađam bằng cách cho y một ám hiệu để biết mỗi khi ai gặp, người ta sẽ không giết y. Nghiệm cho cùng Cain vì gây ra bạo lực (tội ác) nên phải lo sợ bị quả báo bởi vì “thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu giả nan tàng” . Chúng ta không biết rõ Đức Chúa đã cho Cain ám hiệu gì để người ta khi gặp sẽ không giết y, và có lẽ các nhà chú giải Thánh Kinh đã có kiến giải về vấn đề này mà chúng tôi không đủ điều kiện nên chưa đọc tới. Tuy nhiên, cứ theo kinh nghiệm về nhân tướng học Việt Nam rằng “lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng” , hoặc “chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”, “hiện tượng Cain” hay hiện tượng bạo lực chắc chắn lộ ra từ con người của y (cử chỉ, lời nói, khuôn mặt) và thông qua cái lương tri (bon sens, vốn do Tạo Hóa ban cho) của những kẻ gặp y. Những kẻ làm ác cho dù cố dấu diếm hành tung của mình, và mặc dù cố mai phục dưới biết bao danh từ hoa mỹ chắc chắn không thể nào mà không bị lộ ra. Sách Trung Dung của Khổng Tử đã có nói “Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi” (Không có gì che dấu mà không hiện ra, không có gì nhỏ nhặt mà không hiển hiện) và trong Kinh Tụng Ca của Lễ Cầu Hồn Công Giáo (Requiem) cũng đã có viết: “Quidquid latet apparebit” (Không có gì che dấu mà không tỏ lộ) dù được viết trong thời khoảng rất xa nhau nhưng cũng chung một quan điểm đó là không có gì che dấu được sự thật.

Kinh nghiệm cho hay người ta có thể bị lầm một lần hoặc hai lần nhưng không thể bị lầm mãi mãi. Goebbels (1897-1945), cựu Bộ trưởng Tuyên Truyền của Hitler đã từng chủ trương từ những năm 30 của thế kỷ XX rằng cứ nói láo, tiếp tục nói láo rồi một ngày kia điều nói láo đó sẽ trở thành sự thật. Luận cứ đó của Goebbels ngày trước cũng có thể lừa bịp được nhân dân Đức trước khi Hitler lên nắm chính quyền (1933) và trong Thế chiến II (1939-1945) nhưng ngày nay đã hoàn toàn bị phá sản vì kỹ thuật thông tin tuyên truyền hiện tại đã quá tiến bộ (mau) và rộng khắp (toàn cầu). Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay còn chấp nhận dùng phương pháp cổ lổ sĩ của Goebbels thì chính là tự bóc trần bản chất gian manh của mình trước công luận.

Đối chiếu với lịch sử cận đại Việt Nam, theo Hoàng Văn Chí trong tác phẩm From Colonialism to Communism, A case history of North Vietnam (Nhà xuất bản Frederick A. Praeger, Second Printing, 1965, trang 70), hai chữ Việt Minh xuất phát từ tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm lập ra tháng 1 năm 1936 mà Hồ Chí Minh đã cưỡng đoạt lúc còn ở Trung Hoa thường được viết tắt là VM, đọc nhanh là VẸM. Trong tiếng Việt, VẸM có nghĩa con vẹt, nghĩa là nói như con vẹt, tức là nói láo. Lời ví von này có nghĩa là được dạy cho điều gì thì lặp lại điều đó. Cho nên “nói như cán bộ Việt Minh” có nghĩa nói láo như Vẹm, tức giả nhân giả nghĩa như Vẹm. Cụ Hoàng Văn Chí từng là chuyên viên in bạc cho Hồ Chí Minh trong thời gian kháng chiến nhiều năm, đã bỏ về thành nên biết rất rõ chế độ Cộng Sản. Theo cụ Chí cho biết, để tránh bị nhân dân cười cợt hai chữ Việt Minh, là VÊ-EM tức Vẹm, đảng CSVN bèn đổi hai chữ Việt Minh ra Liên Việt nhưng do thái độ ởm ờ, quờ quạng, phản trắc, không “thiệt nhân thiệt tính” của đảng Cộng Sản Việt Nam và các thành viên trong mặt trận Liên Việt, dân chúng khắp nơi gọi Liên Việt là LỜ VỜ ! Như thế đủ biết quần chúng Việt Nam lúc nào cũng biết cảnh giác, và cảnh giác cao độ chứ không thể để CS lừa bịp dễ dàng.

Sự thật nói ở trên có thể đem đối chiếu với hành động gian ác của bạo quyền Cộng Sản qua vụ Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội trong những tháng ngày qua. Chắc chắn người Công Giáo VN và nhân dân nước Việt đã nhận diện được chân tướng của bọn cầm đầu nhà nước Cộng Sản và không thể lầm mãi với chế độ Cộng Sản được.

Trong triết lý chính trị của Á Đông thời cổ có thể nêu một thí dụ điển hình về việc sử dụng bạo lực là việc nhà Tần (221-206) áp dụng chính sách của Pháp gia trong việc thống nhất Trung Quốc vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Pháp gia là học phái chủ trương dùng hình phạt, pháp luật, nhất là bạo lực để thôn tính hay thống trị một đất nước.

Theo bản đồ của J. Gernet vẽ nước Trung Hoa vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, nước Tần ở vào một vị trí hẻo lánh lại mang tính chiến lược tại phía tây của quốc gia Trung Hoa này so với các nước khác thời Chiến Quốc như Ba Thục, Chu, Tống, Lỗ, Tề, Triệu, Yên đa số ở về phía đông, nghĩa là ít bị các nước khác dòm ngó. Nước Tần có cửa ải Hàm Cốc vốn là một vị trí địa lý rất hiểm trở “một người giữ cửa đó thì cự được vạn người”. Tần Thủy Hoàng đã biết khai thác thế địa lý chính trị (geopolitics) của ải quan này mình bằng cách từ phía tây đột nhập tấn kích các nước phía đông rồi sau đó rút lui mà các nước kia không dám mạo hiểm truy kích về phía tây. Chiến lược này về sau đã ảnh hưởng trên chiến lược của Mao Trạch Đông đó là “lấy rừng núi chế ngự nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị”. Buổi đầu (năm 242) Tần Thủy Hoàng dùng Lã Bất Vi làm Tể tướng, sau đó bãi chức họ Lã và dùng Lý Tư, một môn sinh của Tuân Tử thuộc phái Pháp gia. Trong phái Pháp gia người giỏi hơn cả là Hàn Phi Tử, bạn học của Lý Tư, rất được Tần Thủy Hoàng khâm phục vì nghe tiếng nhưng chưa từng gặp gỡ. Vì đố kỵ tài năng, Lý Tư đã gièm pha Hàn Phi Tử khi ông này tới Tần được ít lâu nên Hàn Phi Tư bị tống giam và bỏ mạng trong ngục. Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả trong chính sách của Tần Thủy Hoàng áp dụng sau khi thống nhất được Trung Quốc đó là vua Tần dùng Thương Ưởng hay Vệ Ưởng, cũng là một môn đồ của Pháp gia, và đã dám áp dụng những biện pháp cải cách sắt máu quan trọng trong đó có việc tiêu diệt giai cấp quý tộc mà lập ra một giai cấp mới là giai cấp quân nhân, cũng giống như CS sau này chủ trương “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, tróc tận rễ” để theo chính sách chuyên chính vô sản. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, “Tần đã thành công nhờ chính sách độc tài, sự tổ chức chặt chẽ, chiến thuật đại tài, mà cũng nhờ mưu mô xảo quyệt: dùng một bọn do thám cho lẻn vào tất cả các nước, vung tiền ra mua chuộc các đại phu, tướng quân của địch, mua chuộc không được thì ám sát. Những cách đó thành công rồi, lúc đó Tần mới đưa quân vô. Hàn (230), Triệu (228), Ngụy (225), Sở 223, Tề (221) đều vì vậy mà bị diệt.” ( Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Văn Nghệ xb. 2003, tr. 112).

Mua chuộc không được thì ám sát, tức là sử dụng bạo lực bởi vì mục đích biện minh cho phương tiện (la fin justifie les moyens). Tuy cùng là học trò của Tuân Tử nhưng hành động của Lý Tư lại khác với Hàn Phi Tử. Bạo lực nói chung là triết lý hành động của những người theo chủ nghĩa Cộng Sản như trường hợp Mao Trạch Đông thủ tiêu Lưu Thiếu Kỳ, Stalin cho giết Trosky tại Mễ Tây Cơ năm 1936, Hồ Chí Minh thanh toán Tạ Thu Thâu, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi v.v...

2.- Bản chất của bạo lực Cộng Sản qua một số sự kiện lịch sử.

Con người hay một tập thể cá nhân quen sử dụng bạo lực xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có gia đình, môi trường giáo dục hay xã hội. Nếu là gia đình tốt, có căn bản giáo dục đàng hoàng thì con cái tất nhiên cư xử đúng khuôn phép lễ giáo nhờ đó bạo lực ít khi xảy ra trong đời sống gia đình.

Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã uốn nắn hun đúc ông thành con người của bạo lực vì ảnh hưởng của gia đình, gia tộc của ông, nhưng lại được che dấu dưới rất nhiều lớp son do kỹ thuật sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ của guồng máy cai trị thực hiện.

Thân phụ của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng năm 1901, làm thừa biện bộ Lễ từ năm 1902 đến 1909 rồi được bổ làm tri huyện Bình Khê (Bình Định). Ông Sắc vốn nghiện rượu nên thường hay say. Vào tháng 1-1910, trong một cơn say rượu tri huyện Sắc đã dùng roi mây đánh chết một người tù, tên là Tạ Đức Quang (theo Bùi Tín, hồi ký Mặt Thật, (Nxb Saigon Press,, California, 1993, tr. 95). Vì ông Nguyễn Sinh Sắc có học vị cao nên triều đình cho khỏi bị đánh đòn 100 trượng để giữ thể diện cho ông ta, và ông chỉ bị hạ bốn cấp bậc quan lại và bị sa thải. Theo lời bà Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Hồ Chí Minh cho biết, “bà không thể chịu đựng lâu ngày thái độ cộc cằn thô lỗ của cha bà, nay đã mắc phải tật nghiện rượu và thường hay đánh đập bà.” (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l”Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tr. 133. Trần Gia Phụng, Án tích Cộng sản Việt nam, Nxb. Non Nước, Canada, 2001, tr. 336).

Trong bài viết Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia đăng trong cuốn sách Trong Cõi, (Nxb Trăm Hoa, California, 1993) nhà sử học Trần Quốc Vượng cho biết ông Nguyễn Sinh Sắc thật sự không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm mà chính là con của cử nhân Hồ Sĩ Tạo ở làng Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà Hà Thị Hy vốn có thai với ông Hồ Sĩ Tạo, được gia đình gả cho anh dân cày nhưng tương đối có của mà tuổi cao, lại góa vợ là Nguyễn Sinh Nhậm để tránh tai tiếng cho gia đình là có con gái chửa hoang. Sự việc này được nhiều người ở làng Sen biết nhưng ai cũng để bụng nhất là khi ông Hồ đã lên làm chủ tịch nước VNDCCH. Một lai lịch gia đình tai tiếng và bất minh như vậy, một ông cha nghiện ngập đến luôn luôn sử dụng bạo lực, thượng cẳng tay hạ cẳng chân với con cái trong gia đình lại có tiền án đánh chết người như Nguyễn Sinh Sắc, tất nhiên là có ảnh hưởng rất xấu trên con cái trong nhà như Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành hoặc Hồ Chí Minh.

Với chính quyền Cộng Sản tại Việt Nam, từ năm 1945 bạo lực đã được công khai sử dụng như là một phương tiện hữu hiệu để tiêu diệt các thế lực mà họ coi là thù nghịch như các chính đảng quốc gia Việt Quốc, Đại Việt, Duy Dân, Dân Xã, các nhân vật Công Giáo, Phật Giáo có uy tín, v.v... mà rất nhiều tư liệu đã đề cập đến.

Trong nội bộ đảng Cộng sản, bạo lực và thủ đoạn cũng được sử dụng để tranh dành quyền lực, bịt miệng đối thủ, khỏa lấp sự thật mà bản thân những người lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã từng có những kinh nghiệm cá nhân.

Với Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1925, đã từng cấu kết với Lâm Đức Thụ bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp lấy 100.000 quan để cướp quyền lãnh đạo các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa như Tâm Tâm Xã, biến các cán bộ của tổ chức này thành cán bộ CS.

Năm 1930, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã từng hứa hôn với nhau khi qua Trung Quốc làm việc tại Đông Phương Bộ Quốc tế Cộng Sản. Năm 1931, Nguyễn Thị Minh Khai bị mật thám Pháp bắt và thả ra năm 1934. Lúc này Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai được chọn làm đại biểu đi dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ 7 tổ chức tại Liên Xô. Lê Hồng Phong lên đường về nước trước còn Nguyễn Thị Minh Khai ở lại thụ huấn với Hồ Chí Minh để tham dự đại hội. Sự gian díu của Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai trong thời gian ngắn này đã dẫn đến việc Nguyễn Thị Minh Khai có thai. Khi hai người này đến Liên Xô, tổ chức Đảng CSLX đã có những can thiệp để hai người chính thức thành hôn với nhau. Lê Hồng Phong bị bắt ở Chợ Lớn năm 1938 sau khi chia tay với Hồ Chí Minh tại Hongkong để về nước. Nhà nghiên cứu sử học Minh Võ nêu nhận xét: “Cuộc gặp gỡ giữa Lê Hồng Phong và Hồ Chí Minh diễn ra hết sức bí mật nên việc bị bắt của lê Hồng Phong cũng thành một nghi vấn là có thể do bàn tay hãm hại của ông Hồ vì ông vẫn biết Lê Hồng Phong chưa nguôi thù hận về câu chuyện tình với Minh Khai nên rat ay trừ khử.” (Minh Võ, Hồ Chí Minh, nhận định tổng hợp, Nxb. Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia, 2006, tr. 62).

Đối với những người cán bộ CS do Liên Xô huấn luyện, được cử về Việt Nam hoặc Trung Hoa hoạt động bên cạnh Hồ Chí Minh để theo dõi họ Hồ, Hồ Chí Minh cũng tìm cách dùng bạo lực để thanh toán. Cụ thể là ngày 16-8-1945, khối này được gọi là khối Ly Khai đã bị Việt Minh tấn công ở Ô Cầu Giấy khiến cho một số tử nạn và một số thoát được như Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ, Nguyễn Công Tuyền, Tạ Thu Thâu, Đào Tuấn Kiệt, Lê Ngọc Huỳnh, Trần văn Mại...

Tuy nhiên nhóm Đệ Tứ Quốc Tế vẫn là nhóm bị Hồ Chí Minh và đảng CS Đông Dương thù ghét nhất. Trong một chỉ thị nhắc cho Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng ta không thể nhượng bộ điều gì cho nhóm Tờ-Rốt-Kít. Chúng ta phải làm tất cả mọi việc có thể được để lộ mặt nạ của chúng là những con chó của Phát Xít và tiêu diệt chúng về chính trị.” (Minh Võ, Sách đã dẫn, tr. 64).

Sau vụ Ô Cầu Giấy, Tạ Thu Thâu trở về Nam bằng hỏa xa. Đến Quảng Ngãi, ông ghé thăm người con của Nguyễn An Ninh vào tháng 9-1945, bị cán bộ Việt Minh phát hiện và bắt giết tại bờ biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi. Trong thời gian ở Pháp tham dự hội nghị Fontainebleau, khi trả lời Daniel Guérin, một đảng viên đảng Xã Hội Pháp hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh giả bộ buồn rầu trả lời: “Ông Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc; chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất...” Và khi Guérin hỏi tiếp ai là thủ phạm trong vụ ám sát này, Hồ Chí Minh khẳng quyết: “Tất cả những ai đi trái với đường lối của tôi vạch ra đều sẽ bị tiêu diệt...”

Việc Phùng Chí Kiên bị giết cũng do Hồ Chí Minh thực hiện qua Võ Nguyên Giáp. Vì Phùng Chí Kiên vừa biết quá nhiều về dĩ vãng của Hồ Chí Minh vừa được Liên Xô tín nhiệm nên được giao nắm lực lượng vũ trang trên cả Võ nguyên Giáp. Sư có mặt của Phùng Chí Kiên sẽ khiến Hồ Chí Minh khó nắm trọn quyền lực (Minh Võ, Sđd, tr. 248).

Trong tác phẩm Đêm giữa ban ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên đã nói đến trường hợp Nông Thị Xuân bị Hồ Chí Minh ra lệnh cho Trần Quốc Hoàn thanh toán sau khi có với Hồ một đứa con trai tên Nguyễn Tất Trung càng chứng tỏ khả năng sử dụng bạo lực của “bác” ngay cả đối với người thiếu nữ nhà quê chơn chất, thật thà từng là đồ chơi của mình.

Từ năm 1954, sau khi chế độ CS chiếm được một nửa VN, đảng CS đã tiến hành thanh toán bằng thủ đoạn và bạo lực các thành phần trí thức Miền Nam theo CS như Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Trấn, mà một số tư liệu đã vạch trần sự thật trước công luận nhân dân. Từ năm 1975 đến nay, hành vi bạo lực vẫn tiếp tục được sử dụng để tranh quyền đoạt chức, thanh toán các tranh chấp nội bộ. Chẳng những thế, bạo lực còn là tiếng nói đè bẹp công lý, ngăn chận các vụ khiếu kiện của dân oan, chà đạp tự do tôn giáo, thủ tiêu các trào lưu đấu tranh cho tự do, dân chủ của người dân Việt Nam. Các cụm từ như “bạo lực cách mạng”, “bạo lực chuyên chính vô sản” vốn được chính quyền CSVN công khai sử dụng như khẩu hiệu thường ngày của họ để kích động thú tính trong lòng người cán bộ CS đồng thời là lực răn đe đối thủ, đối phương.

Qua biến cố Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà, người Công Giáo Việt Nam đã và đang đối diện với bạo lực của chính quyền CS cụ thể là những vụ việc đàn áp đã xảy ra trong các ngày 28 và 31-8-2008 tại Thái Hà mà cao điểm là chính quyền đã dùng bạo lực để biến khu đất Tòa Khâm Sứ ngày 19-9 và Linh địa Đức Bà của Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội trong tuần qua thành công viên cây xanh, một hình thức cưỡng đoạt vật sở hữu của tôn giáo.

3.- Người Công Giáo Việt Nam phải làm gì trước chính sách bạo lực của ngụy quyền Cộng Sản?

Cộng Sản sở dĩ khai thác được sức mạnh của bạo lực vì biết rằng bản tính tâm lý con người là lúc nào cũng sợ, cũng muốn yên ổn trong cuộc sống chứ không muốn bị quấy rầy, phiền phức. Cộng Sản có nhiều kinh nghiệm áp dụng bạo lực đối với các thành phần dân chúng trong đó có cả trí thức, nông dân, đảng phái, tôn giáo. Ngoài ra Cộng Sản còn có cả một kho tri thức về phương cách áp dụng bạo lực học được từ các nước trong khối CS trên thế giới trước đây đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc và các quốc gia theo phe Xã hội Chủ nghĩa. Thêm vào đó, Cộng Sản Việt Nam còn có khả năng sáng chế ra các thủ thuật áp dụng bạo lực cách tinh vi, độc hiểm của riêng mình mà những ai trải qua nhiều năm tháng trong lao tù của chúng đều phần nào hiểu biết. Các phương tiện nhân sự đông đảo, tiền bạc rất dồi dào của đảng CSVN là nguồn hỗ trợ mãnh liệt cho chính sách bạo lực mà trong cuộc đối đầu này giữa bạo quyền với tôn giáo, có người đã ví như trứng chọi đá.

Trước hết người Công Giáo Việt Nam phải chuẩn bị cho mình một tinh thần dứt khoát đó là không sợ bạo lực. Sau khi Cain giết Aben, y cảm thấy sợ về hành động sát nhân của mình và tìm cách lẩn trốn Thiên Chúa. Tâm lý biết sợ của Cain sở dĩ có là vì y đã biết mình làm việc trái với nhân luân. Người Công Giáo cầu nguyện để đòi công lý và sự thật, không đòi lật đổ chính quyền, không làm việc gì vi phạm luật pháp mà hành động trong khuôn khổ của đức tin. Thật sự, những kẻ manh tâm thi hành bạo lực như bọn công an với chó nghiệp vụ, bọn thanh niên du đảng Hồ Chí Minh, bọn cai nghiện côn đồ, mới chính là những kẻ mang tâm lý sợ sệt vì chúng gây ra tội ác. Cần phải khuếch tán tinh thần “vô úy” (không biết sợ) trong đơn vị gia đình để người chồng hỗ trợ cho người vợ, cha mẹ nâng đỡ khuyến khích con cái, anh chị em yểm trợ cho nhau, người trong giáo xứ khích lệ lẫn nhau. Trên một bình diện rộng hơn, tinh thần vô úy phải được coi là một triết lý sống giữa những người còn có chút thiện tâm đối với một xã hội băng hoại về mọi thứ đạo đức một khi tiền bạc được coi là thước đo giá trị con người. Khi tạo được cho mình một tâm thức “vô úy”, con người sẽ trở nên bình tĩnh hơn để đối phó khôn ngoan với các thực tế chung quanh, nhất là đối phó với các mưu ma chước quỷ của chính quyền CS. Với tinh thần vô úy, con người nhận thức được giá trị thực tại tâm linh của cuộc sống, giá trị của nhân phẩm với các chiều sâu nội tâm mà Thiên Chúa đã đặt để trong từng người.

Xã hội Việt Nam hôm nay cần một luồng gió mới thổi từ những tâm hồn công chính, không biết sợ cường quyền và bạo lực, sẽ được thay da đổi thịt ít nhất là về phương diện tinh thần với não trạng mới. Tinh thần hiệp thông qua hình ảnh Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi thăm gia đình những người có thân nhân bị chính quyền bắt trong vụ việc Thái Hà và nhất là sự hiệp thông của toàn thể các giáo phận ở trong nước và các giáo xứ, cộng đoàn, đoàn thể khắp nơi trên thế giới đã là yếu tố quan trọng khích lệ tinh thần phấn chấn hy sinh cho mục tiêu đòi công lý của giáo dân tại Tổng giáo phận Hà Nội cũng như tại giáo xứ Thái Hà, không sợ bạo lực và sẵn sàng đương đầu với bạo lực bằng tinh thần cầu nguyện của mình.

Trong nỗ lực tạo cho mình tinh thần “vô úy” đó, người Công Giáo Việt Nam tìm đến nguồn ân sủng khích lệ nhất đó là Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bởi vì Các Ngài đã bày tỏ tinh thần “vô úy” đến mức cao điểm nhất với sự hiến dâng mạng sống của mình vì đức tin. Các Ngài đã chịu biết bao hình thức tàn ác của bạo lực như đánh đập, tù ngục, chửi bới, khắc chữ vào mặt, bị gọi là “tả đạo”, “dữu dân” (dữu là một thứ cỏ dại), bị phân sáp, không được làm việc mục vụ như đọc kinh, xem lễ, bị cướp hết mọi tài sản như ruộng đất, tiền bạc, nhà cửa và nhiều hình thức của cái chết như chết rũ tù, bị lăng trì, xử giảo (thắt cổ), chém đầu, chém ngang lưng, voi giầy, ngựa xéo v.v... Chính Các Thánh Tử Đạo VN, tiền nhân của chúng ta, sẽ phù hộ cho con cháu thoát khỏi nỗi sợ hãi thường tình, trở nên cam đảm, vượt thắng bạo lực.

“Đừng sợ...” là lời dạy của Đức Kitô nói với các Tông đồ thuộc Nhóm Mười Hai, cũng là thông điệp mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II nói với người Công Giáo Ba Lan năm 1979 khi Ngài về thăm quê hương của mình để từ đó sức mạnh của đức tin tiến lên như ánh sáng đẩy lùi bóng tối. Một khi tinh thần “vô úy” trở thành phổ biến trong xã hội Việt Nam, thái độ “không sợ” đã trở thành bản lĩnh của mọi người dân Việt thì chắc chắn bạo quyền phải lùi bước.

Thứ đến, người Công Giáo Việt Nam phải vững tin vào mục tiêu tranh đấu của mình đó là đòi cho được công lý và sự thật. Xã hội Việt Nam hôm nay thật sự không vắng bóng công lý và sự thật. Vì không có công lý cho nên tham nhũng đã hoành hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Vì không có công lý cho nên xảy ra biết bao nhiêu vụ khiếu kiện của người dân khắp nơi vốn bị cướp đất, cướp ruộng một cách bất công mà không hề được chính quyền lưu tâm giúp đỡ.

Ngày 26-9-2008, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã công bố bản “Quan điểm của Hội đồng Giám Mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay” gồm ba điểm nhận xét về tình hình và ba điểm đề nghị cụ thể gọi là quan điểm nhằm giải quyết tình hình hiện nay. Đọc bản quan điểm này, người ta thấy Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhận định rất sâu sát rõ ràng về tình hình đất nước hiện nay thông qua vụ việc Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà, đồng thời chỉ ra những hướng đi giải quyết cụ thể nói lên thiện chí đóng góp ý kiến của các vị lãnh đạo Công Giáo tại Việt Nam trong tinh thần ôn hòa, bình tĩnh giải quyết những tranh chấp đầy khó khăn hiện tại. Bản quan điểm của HĐGMVN sẽ là cẩm nang giúp cho chính quyền CS ra khỏi cảnh lúng túng, hạ sách khi họ tưởng rằng dùng bạo lực như công an, chó nghiệp vụ, bọn thanh niên du đảng Hồ Chí Minh, lũ người đầu trâu mặt ngựa cai nghiện tâm thần, súng đạn, roi điện, hơi cay để trấn áp giáo dân là mọi chuyện đều xong... Bạo lực đã lầm!

Qua bản Quan điểm này, người Công Giáo Việt Nam có thể thực hiện các việc làm của mình một cách thích ứng theo tinh thần hòa bình mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã vạch ra.

Seneca (4 trước C.N-65), một triết gia cổ điển phương Tây có nói một câu nổi tiếng: “Sự tàn bạo tự nó đã uống một phần lớn nọc độc của nó” (La méchanceté boit ell-même la plus grande partie de son venin) . Chính quyền CSVN đã sử dụng bạo lực với tất cả sự tàn ác (méchanceté) cả trong lãnh vực truyền thông, báo chí để vu khống, xuyên tạc, đặt điều, bôi nhọ Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt nhưng việc làm đó đã bị phản tác dụng, trở thành gậy ông đập lưng ông, đúng triết gia Seneca đã nhận định và như Đức Kitô đã cảnh báo “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” . (Mát-thêu, 26, 52). Chính quyền CSVN phải nhớ rằng dùng bạo lực đối với nhân dân sẽ chết vì bạo lực. Chính quyền với nhân dân cũng giống như thuyền đi trên nước, thuyền đi trên nước nhưng nước cũng có thể lật nhào và nhận chìm thuyền.

(New Jersey 29-9-2008)
Nguyễn Đức Cung